Dục Đức là ai? Ông Vua có số phận bi thảm nhất Việt Nam- Ông vua vắn số

Or you want a quick look: Dục Đức là ai?

Ít ai biết rằng, lịch sử triều Nguyễn Việt Nam có một ông Vua chỉ lên ngôi được 3 ngày và có số phận vô cùng bi thảm. Đó là Vua Dục Đức. Cùng GiaiNgo tìm hiểu Dục Đức là ai và cuộc đời, thân thế của vị Vua này nhé! Vuidulich.vn cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:
  • Tiêu sử vua Hiệp Hòa
  • Vua Đức
  • 1 tháng 3 vua
  • Sau vua Dục Đức là Ái
  • Lăng vua Đồng Khánh
  • Vị vua thứ 6 của nhà Nguyễn
  • Hình ảnh vua Dục Đức
vua dục đức

vua dục đức

https://www.youtube.com/watch?v=R_pvBOAlNBQ

Dục Đức là ai?

Dục Đức là vị Vua thứ năm của triều đại nhà Nguyễn. Vua Dục Đức tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Ái, sau được Vua Tự Đức đổi thành Nguyễn Phúc Ưng Chân. Ông lên ngôi Vua ngày 19/7/1883, nhưng tại vị chỉ được 3 ngày, ngắn nhất trong số 13 vị hoàng đế của triều Nguyễn. Ông được Vua Thành Thái truy tôn Miếu hiệu là Cung Tông, Thụy hiệu là Khoan nhân Duệ triết Tĩnh minh Huệ hoàng đế. Dục Đức là tên gọi khi ông còn ở Dục Đức Đường. Dục Đức là ai?

Tiểu sử Vua Dục Đức

Vua Dục Đức sinh năm nào?

Vua Dục Đức sinh ngày 23 tháng 2 năm 1852. Một số tài liệu khác ghi chép rằng ông sinh ngày 4 tháng 1 năm Quý Sửu (tức 11 tháng 2 năm 1853). Dục Đức được Vua Tự Đức nhận làm con nuôi năm 17 tuổi.

Vua Dục Đức mất năm nào?

Vua Dục Đức mất ngày 6 tháng 10 năm 1883, Giờ Thìn (7 – 9 giờ), hưởng dương 32 tuổi. Lăng của Vua Dục Đức là An Lăng, tại làng An Cựu, xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Dục Đức là ai?

Vua Dục Đức quê ở đâu?

Vua Dục Đức quê ở Huế. Nói về ngai vàng triều Nguyễn sau khi Vua Tự Đức băng hà (19/7/1883), chỉ trong bốn tháng (từ tháng 7 đến tháng 11/1883) đã ba lần đổi chủ: Dục Đức – Hiệp Hòa – Kiến Phúc. Vì thế, bấy giờ ở Huế lan truyền hai câu thơ: “Nhất giang lưỡng quốc ngôn nan thuyết Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường.” Nghĩa là “Một sông, hai nước, lời khó nói. Bốn tháng, ba Vua, điềm chẳng lành”.

Ông vua văn số

Vua Tự Đức cho xây Dục Đức Đường ở phía đông Hoàng Thành làm nơi ăn ở và học hành của Ưng Chân, giao cho Lệ Thiên Anh hoàng hậu trông coi việc dạy bảo. Sau khi vua Tự Đức băng hà (19.7.1883), triều đình nhà Nguyễn lâm vào thế rối ren. Chỉ trong bốn tháng (từ tháng 7 đến tháng 11.1883), ngai vàng triều Nguyễn đã ba lần đổi chủ: Dục Đức - Hiệp Hòa - Kiến Phúc. Vì thế nên bấy giờ ở Huế lan truyền hai câu thơ: Nhất giang lưỡng quốc ngôn nan thuyết. Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường Một sông, hai nước, lời khó nói. Bốn tháng, ba vua, điềm chẳng lành).
Dục Đức, ông vua vắn số của triều Nguyễn - ảnh 1
Mộ các ông hoàng bà chúa trong lăng Dục Đức trong hình chụp đầu thế kỷ 20
ẢNH: T.L
Lợi dụng tình hình này, thực dân Pháp mở cuộc tấn công vào cửa biển Thuận An. Quan quân triều Nguyễn anh dũng chống trả nhưng do chênh lệch lực lượng nên bị thất bại. Triều đình buộc phải nghị hòa với Pháp. Sau cùng, thực dân Pháp ép triều Nguyễn ký Hòa ước Quý mùi với những điều khoản rất bất lợi cho triều Nguyễn và gia tăng quyền lực cho Tòa Khâm sứ ở Huế, cho phép Khâm sứ Trung Kỳ trực tiếp can dự vào chính sự nước ta. Vua Tự Đức muốn người nối ngôi phải thật sự tài năng và đức độ nên thường để ý xem xét hành vi của Ưng Chân, trong khi Ưng Chân ham chơi, phóng túng nên thường bị vua Tự Đức quở trách.
READ  Cấu trúc và cách dùng have something done trong tiếng anh vuidulich.vn
Năm 1883, vua Tự Đức phong cho Ưng Chân tước Thoại Quốc công. Tháng 7.1883, vua Tự Đức đau nặng, cho triệu quần thần vào công bố di chiếu truyền ngôi cho Ưng Chân. Vì muốn cảnh tỉnh Ưng Chân và mong người kế vị sẽ đi theo con đường thiện, nên trong di chiếu truyền ngôi có đoạn viết: “(Việt dịch) [ Ưng Chân] có tật ở con mắt nên hành vi mờ ám, sợ sau này thiếu sáng suốt, tính lại hiếu dâm cũng là điều chẳng tốt, chưa chắc đã đảm đương được việc lớn. Nước có vua lớn tuổi là điều may cho xã tắc, nếu bỏ đi thì biết làm sao đây?” (Nguyễn Phúc tộc thế phả, 1995, tr. 371). Vua giao cho Hội đồng phụ chính gồm Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, phối hợp với Miên Định và Miên Trinh (đều là Hoàng tử, con của vua Thiệu Trị) lo can ngăn những điều sai quấy của người kế vị. Cả ba vị trong Hội đồng phụ chính đều dâng sớ xin vua Tự Đức lược bỏ đoạn di chiếu không hay về Ưng Chân nhưng vua không đồng ý, cho rằng viết như thế là để cảnh tỉnh Ưng Chân. Sau khi vua Tự Đức băng hà, Ưng Chân triệu tập quần thần ở điện Quang Minh, nói: “V ua là bậc đứng đầu trăm họ, phải là người có đạo đức đứng đầu, di chiếu của Tiên đế, vì lo cho trăm họ, nên có lời răn bảo nghiêm khắc như trên. Ngày nay việc nước khó khăn, quan hệ ngoại giao căng thẳng, nếu để lời di chiếu lan truyền thì quân Pháp sẽ tìm cớ gây rắc rối, mà các lân bang cũng xem thường, với tình hình như vậy, đình thần giải quyết ra sao?”, rồi đề nghị bỏ đoạn di chiếu trên. Đình thần tâu: “ Hội đồng phụ chính đã tâu xin bỏ nhưng Tiên đế không chịu”. Ưng Chân lại yêu cầu các quan suy nghĩ thêm để tìm cách “tránh hại cho việc nước”.

Nơi quan tài rơi xuống làm nơi yên nghỉ của vua

Ngày làm lễ tấn tôn Ưng Chân lên ngai vàng, Phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành tuyên đọc di chiếu, đến đoạn văn trên thì không đọc, liền bị Tôn Thất Thuyết đàn hặc, phải dừng đọc. Tôn Thất Thuyết cử Tham tri Nguyễn Trọng Hợp đọc lại di chiếu, rồi kết tội Ưng Chân. Họ dâng biểu hạch tội lên cho Lưỡng cung là Thái hoàng thái hậu Từ Dũ và Hoàng thái hậu Lệ Thiên Anh, quy kết Ưng Chân ba tội: Muốn sửa di chiếu - Có đại tang mà mặc áo màu - Hư hỏng chơi bời. Ba ngày sau lại thiết triều, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tuyên bố phế bỏ Ưng Chân theo lệnh của Lưỡng cung. Đình thần không ai dám nói gì, chỉ có quan ngự sử Phan Đình Phùng đứng lên phản đối, liền bị Tôn Thất Thuyết bắt giam, rồi cách chức đuổi về quê. Ban đầu Ưng Chân bị giam ở Dục Đức Đường, về sau dời sang giam ở Thái Y Viện, rồi ngục thất phủ Thừa Thiên, đến tháng 10.1884 thì chết do bị bỏ đói. Do chưa kịp đặt niên hiệu, nên người đời sau đã lấy tên Dục Đức Đường, là nơi ở và cũng là nơi giam cầm ông, để gọi ông là vua Dục Đức. Sau khi mất, thi hài của vua Dục Đức được gói trong một chiếc chiếu, do hai người lính và một viên quyền suất đội gánh đi chôn. Trên đường đi, chiếc “quan tài” bằng chiếu này bị đứt dây rơi xuống cạnh một khe nước cạn ở đầu làng An Cựu. Một người lính chạy vào chùa Tường Quang mời ni sư trụ trì ra xử lý vụ việc. Mọi người nhất trí chọn nơi chiếc quan tài rơi xuống làm nơi yên nghỉ của vua vì cho rằng đó là đất “thiên táng” và chôn cất qua loa cho xong chuyện. Ba ngày sau, vợ con của nhà vua mới được thông báo để làm lễ chịu tang. Nấm mộ đất cạnh khe nước cạn, lại không người chăm sóc nên nhanh chóng tàn lụi.
READ  Trương Gia Bình là ai? Xây trường cho 1000 trẻ mồ côi COVID?
Dục Đức, ông vua vắn số của triều Nguyễn - ảnh 2
Mộ vua Dục Đức
ẢNH: TRẦN ĐỨC ANH SƠN
Năm 1889, con trai của vua Dục Ðức là Nguyễn Phúc Bửu Lân được đưa lên làm vua, lấy niên hiệu là Thành Thái. Theo chỉ dẫn của những người am tường sự việc, vua Thành Thái đã tìm được nơi chôn cất thi hài của vua cha và cho xây dựng lăng mộ ngay tại mảnh đất “thiên táng” này. Lăng xây xong vào đầu năm 1890, đặt tên là An Lăng, nhưng chưa có điện thờ. Mọi nghi lễ thờ cúng vua Dục Ðức đều được tổ chức ở chùa Tường Quang cách đó 200 m. Năm 1899, vua Thành Thái cho xây thêm điện Long Ân bên phải lăng mộ để làm nơi thờ cúng vua Dục Đức, cùng các công trình phụ trợ. Sau khi bà Từ Minh (chính phi của vua Dục Ðức) tạ thế, triều đình mai táng thi hài của bà bên phải mộ vua Dục Ðức. Năm 1892, vua Thành Thái truy tôn Dục Đức là Cung Tông Huệ hoàng đế. Tuy nhiên, do vua Dục Đức bị phế truất, nên linh vị của ông không được đưa vào thờ trong Thế Tổ Miếu ở Đại Nội Huế như các vị vua Nguyễn khác.

Thân thế và cuộc sống ban đầu của Vua Dục Đức

Vua Dục Đức tên là Nguyễn Phúc Ưng Chân. Ông là con thứ hai của Thoại Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y (con trai thứ tư của Vua Thiệu Trị) và bà Trần Thị Nga. Năm 17 tuổi, ông được Vua Tự Đức chọn làm con nuôi. Vốn dĩ Vua Tự Đức có tới 103 người vợ nhưng lại không có con nối dõi, nên đã nhận ba người cháu làm con nuôi. Trong số đó, người lớn nhất là Nguyễn Phúc Ưng Chân. Đến năm 1870, Ưng Chân được chọn làm Hoàng trưởng tử. Dục Đức là ai? Dục Đức được Vua Tự Đức cho xây dựng phòng riêng để ăn ở, học tập. Vua giao ông cho Hoàng quý phi Vũ Thị Duyên trông nom dạy bảo. Nơi học tập của Vua Dục Đức về sau được gọi là Dục Đức Đường. Năm 1883, ông được phong làm Thụy Quốc Công.

Vị Vua 3 ngày?

Ngày 15 tháng 7 năm 1883, Vua Tự Đức lâm trọng bệnh, cần tìm người nối ngôi trong 3 người con nuôi. Người con thứ 3 là Nguyễn Phúc Ưng Đăng vốn được cho là người mà Vua cha muốn truyền ngôi nhất. Nhưng thời điểm bấy giờ, đất nước đang rối ren do bị Pháp xâm lược, Ưng Đăng lại quá nhỏ tuổi. Lúc này, Vua Tự Đức buộc phải ban chiếu chỉ, chọn Thụy Quốc Công Nguyễn Phúc Ưng Chân – người con nuôi lớn tuổi nhất để nối ngôi nhằm chăm lo chính sự. Dù cho Ưng Chân ham chơi, phóng túng, thường bị Vua Tự Đức quở trách. Dục Đức là ai? Trong di chiếu truyền ngôi của Vua Tự Đức có đoạn viết: “Ưng Chân có tật ở con mắt nên hành vi mờ ám, sợ sau này thiếu sáng suốt, tính lại hiếu dâm cũng là điều chẳng tốt, chưa chắc đã đảm đương được việc lớn. Nước có Vua lớn tuổi là điều may cho xã tắc, nếu bỏ đi thì biết làm sao đây?”. Cả ba vị trong Hội đồng phụ chính gồm Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đều dâng sớ xin Vua Tự Đức lược bỏ đoạn di chiếu không hay về Ưng Chân nhưng Vua không đồng ý. Vì ông muốn cảnh tỉnh Ưng Chân và mong người kế vị sẽ đi theo con đường thiện. Sau khi Vua Tự Đức băng hà, Nguyễn Phúc Ưng Chân lên ngôi kế vị vào ngày 19/7/1883. Ngày làm lễ tấn tôn Ưng Chân lên ngai vàng, Phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành tuyên đọc di chiếu và đã đọc lược một số đoạn “không cần thiết” theo yêu cầu của Vua Dục Đức. Khi bị hai phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phát hiện ra, Trần Tiễn Thành bị truy tội làm giả di chiếu của tiên đế và bị xử nặng. Dục Đức là ai? Đúng 3 ngày sau, hai phụ chính đại thần dâng biểu lên Thái hoàng Thái hậu Từ Dụ, vạch ra 4 tội lớn của nhà Vua: “Sửa lại di chiếu của Vua cha; Có đại tang lại mặc áo màu; Tự tiện đưa giáo sĩ vào Hoàng Thành; Thông dâm với cung nữ của Vua cha.” Sau đó, vào 23/7/1883 Vua Dục Đức bị phế truất. Chỉ sau 3 ngày làm Vua, chưa kịp đặt niên hiệu, Dục Đức đã trở thành kẻ trọng tội.
READ  IN TERM OF là gì và cấu trúc của cụm từ IN TERM OF trong tiếng Anh vuidulich.vn

Kết cục phế đế

Sau khi bị phế truất, Dục Đức bị giáng xuống làm Thụy Quốc Công như trước. Ông bị giam ở Dục Đức đường, rồi tới Viện Thái Y, và cuối cùng là Ngục thất trong Kinh thành Huế. Tại đây, ông qua đời sau gần một tháng vì bị bỏ đói và không cho uống nước, hưởng dương 32 tuổi. Sau khi mất, thi hài của Vua Dục Đức được gói trong một chiếc chiếu rách, do hai người lính mang đi chôn. Khi đi đến đầu làng An Cựu, ngoại thành Huế, chiếc chiếu có thi hài Vua bị đứt dây rơi xuống cạnh một khe nước cạn. Tin rằng đây là nơi yên nghỉ do Vua tự chọn, người ta chỉ chôn cất ông qua loa cho xong việc. Ba ngày sau, vợ con của Dục Đức mới được thông báo để làm lễ chịu tang. Nấm mộ đất cạnh khe nước cạn, lại không người chăm sóc nên nhanh chóng tàn lụi. Có lần, một người ăn mày đói chết, gục trên mộ Vua. Dân ở đó không biết đây là mộ Vua nên đã chôn người ăn mày ngay trên mộ Vua. Dục Đức là ai? Năm 1889, con trai của Vua Dục Ðức là Nguyễn Phúc Bửu Lân lên ngôi Vua, lấy niên hiệu là Thành Thái. Ông lần theo dấu vết và lời kể lại để tìm mộ Vua cha. Tuy nhiên, khi đào lên, người ta phát hiện tới hai bộ hài cốt. Vì thế, Vua Thành Thái đành cho người ta lấp đất lại, xây nơi đó thành An Lăng. Vua Dục Đức được an táng cùng người ăn mày tại đây. Dục Đức là ai? An Lăng xây xong vào đầu năm 1890, nhưng chưa có điện thờ. Năm 1899, Vua Thành Thái cho xây thêm điện Long Ân bên phải lăng mộ để làm nơi thờ cúng Vua Dục Đức. Năm 1892, Vua Dục Đức được Vua Thành Thái truy tôn là Cung Tông Huệ hoàng đế. Tuy nhiên, do bị phế truất, nên linh vị của ông không được đưa vào thờ trong Thế Tổ Miếu ở Đại Nội Huế như các vị Vua triều Nguyễn khác.

Gia quyến Vua Dục Đức

Vua Dục Đức có mấy vợ?

Vua Dục Đức có 8 bà vợ, nhưng sử sách chỉ nhắc nhiều đến bà Phan Thị Điều, là mẹ của Vua Thành Thái và Tuyên Hóa vương Nguyễn Phúc Bửu Tán. Những bà còn lại không rõ tên.

Vợ Vua Dục Đức là ai?

Vợ Vua Dục Đức là bà Phan Thị Điều (8/9/1855 – 27/12/1906). Bà là người Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Khi Vua Dục Đức bị phế truất, bà và hai con phải về quê sống. Sau này, Vua Thành Thái lên ngôi mới đón mẹ và các anh chị em vào cung. Sau khi mất, bà được truy phong làm Từ Minh Huệ Hoàng hậu. Dục Đức là ai?

Vua Dục Đức có bao nhiêu con?

Vua Dục Đức có 19 người con, gồm 11 hoàng tử và 8 hoàng nữ. Ngoại trừ hoàng tử Thành Thái và Bửu Tán, những người con còn lại của Vua Dục Đức đều không rõ mẹ.

Con Vua Dục Đức là ai?

Con trai Vua Dục Đức gồm có:
  • Nguyễn Phúc Bửu Cương (22/12/1871 – 7/10/1876).
  • Nguyễn Phúc Bửu Trĩ (2/9/1872 – 1/10/1878).
  • Nguyễn Phúc Bửu Mỹ (24/11/1874 – 2/9/1877).
  • Nguyễn Phúc Bửu Nga (8/9/1875 – 14/11/1876).
  • Nguyễn Phúc Bửu Nghi (6/11/1876 – 9/4/1877).
  • Nguyễn Phúc Bửu Côn (22/11/1877 – 21/11/1880).
  • Nguyễn Phúc Bửu Lân (Vua Thành Thái) (14/3/1879 – 20/3/1954).
  • Nguyễn Phúc Bửu Chuẩn (9/2/1882 – 13/12/1884).
  • Tuyên Hóa vương Nguyễn Phúc Bửu Tán (1882 – 8/5/1941).
  • Hoài Ân vương Nguyễn Phúc Bửu Liêm.
  • Mỹ Hóa công Nguyễn Phúc Bửu Lỗi (19/4/1884 – 20/5/1902).
Dục Đức là ai? Con gái của Vua Dục Đức gồm có:
  • Mỹ Lương Trưởng công chúa Nguyễn Phúc Tôn Thụy (1872 – 1917).
  • Phúc Lâm Công chúa Nguyễn Phúc Nhàn Gia (? – 1925).
  • Nguyễn Phúc Như Tâm.
  • Nguyễn Phúc Thị Nghị.
  • Nguyễn Phúc Học Giá.
  • Nguyễn Phúc Mẫn Sự.
  • Nguyễn Phúc Thông Lư.
  • Tân Phong công chúa Nguyễn Phúc Châu Hoàn (1883 – ?).
Dục Đức là ai?   Vuidulich.vn cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:
  • Tiêu sử vua Hiệp Hòa
  • Vua Đức
  • Vua Dục Đức phạm tội gì
  • 1 tháng 3 vua
  • Sau vua Dục Đức là Ái
  • Lăng vua Đồng Khánh
  • Vị vua thứ 6 của nhà Nguyễn
  • Hình ảnh vua Dục Đức
See more articles in the category: wiki

Leave a Reply