Dàn ý đóng vai Trương Sinh kể lại truyện người con gái Nam Xương 1
MB: Lời tự giới thiệu của Trương Sinh (quê quán, gia cảnh…). Lời giới thiệu của Trương Sinh về người vợ của mình (Vũ Thị Thiết xinh đẹp, nết na…).
TB: Diễn biến câu chuyện:
– Vợ chồng trẻ đang sống hạnh phúc thì chiến tranh xảy ra, Trương Sinh bị xung vào lính.
– Vũ Thị Thiết sinh con trai. Việc nhà chồng một tay nàng đảm đang, lo liệu.
– Mẹ Trương Sinh thương con nơi chiến trường, lo lắng đến sinh bệnh rồi qua đời. Con dâu lo chôn cất bà chu đáo.
– Hết giặc, Trương Sinh về nhà, đau đớn vì mẹ mất.
– Câu nói ngây thơ của đứa con gây ra sự hiểu lầm ghê gớm. Cơn ghen mù quáng của Trương Sinh đã đẩy người vợ hiền vào cái chết oan ức.
– Vũ Nương sau khi gieo mình xuống sông, được các tiên nữ đưa về thủy cung sống với Linh Phi.
– Linh Phi cứu sống Phan Lang, ân nhân cũ. Vũ Nương nhờ Phan Lang nhắn với Trương Sinh ra bến sông gặp nàng.
– Trương Sinh lập đàn giải oan và nhìn thấy Vũ Nương ngồi trên kiệu ở giữa dòng. Vũ Nương không thể trở về nhân gian được nữa.
KB: – Trương Sinh ân hận, tự trách thói ghen tuông nông nổi của mình khiến cho gia đình tan vỡ.
– Mong muốn mọi người hãy nhìn vào bi kịch của mình để rút ra bài học.
Dàn ý đóng vai Trương sinh kể lại truyện người con gái Nam Xương 2
Mở bài:
Mỗi khi nghe con thơ hỏi:” Mẹ con đâu cha?” thì tim tôiđau nhói. Chính thói ghen tuông hồ đồ của tôi đã phá vỡ hạnh phúc gia đình, đẩy người vợ hiền đến cái chết oan ức để con thơ phải mất mẹ. Mỗi lần nhớ đến bi kịch gia đình, lòng tôi vô cùng đau xót.
Cách hai:
Hoàng hôn buông xuống trên bến sông Hoàng Giang, màu trời mang một màu tím ngát, gió thoảng nhẹ đủ để lao xao mặt nước, hàng cây ven bờ rủ bóng làm duyên trước gió. Phong cảnh hữu tình nhưng không làm tôi xao xuyến, bởi tạig sông này, vợ tôi đã quyên sinh bởi tính hồ đồ ghen tuông của tôi gây ra. Mỗi lần nghĩ đến câu chuyện bi kịch của gia đình, lòng tôi đau nhói.
Thân bài:
Tôi tên Trương Sinh. quê ở Nam Xương, thuộc gia đình hào phú. Vợ tôi vốn người cùng làng, tên là Vũ Thị Thiết, tính thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp. Biết tính tôi hay đa nghi, lại phòng ngừa quá mức, nên Vũ Nương rất ý tứ, giữ gìn khuôn phép không để gia đình thất hòa.
Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì xảy ra việc triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm. Trương tôi do thất học nên bị gi tên trong sổ lính đi vào loại đầu. Nghe tin này, lòng tôi đầy lo âukhigia đình neo đơn, mẹ thì già yếu, vợ lại mang thai gần đến ngày s inh nở? Nhưng rồi ngày lên đường cũng đến. Trong buổi tiệc tiễn đưa, mẹ nhắc nhở tôi phải biết giữ mình làm trọng, thấy khó nên lui, lường sức mà tiến. Còn Vũ Nương thì rót rượu đầy, cất lời thiết tha:
– Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về, chàng mang theo hai chữ bình yên, thế cũng đủ rồi.
Lời nói đầy tình nghĩa của nàng khiến mọi người trong buổi tiệc đều xúc động. Tiệc tiễn vừa tàn, tôi đành rứt áo lên đường. Cảnh vật như cũng nhuốm buồn theo con người trong buổi chia li.
Ở chiến trường, tôi trải qua nhiều nguy hiểm, gian khổ. Thế giặc quá mạnh, quân triều đình tổn thất nhiều, có lúc tôi suýt chết trong gang tấc. Nhưng lòng tôi luôn hướng về quê nhà. Mẹ tôi khỏe không? Vợ tôi sinh con trai hay gái? Đứa con có giống tôi không? Chao ôi, tôi mongchiến tranh mau chấm dứt để tôi trở về phụng dưỡng mẹ già, sum hợp vợ con, tôi khát khao biết bao hạnh phúc làm cha, được bế đứa con đầu lòng yêu quý của mình!
Rồi chiến tranh cũng kết thúc, quân giặc bó tay chịu hàng. Về đến nhà, Trương tôi được biết mẹ đã mất, con thơ vừa tập nói. Tôi hỏi mồ mẹ và bế đứa con nhỏ đi thăm. Nó cứ quấy khóc, tôi dỗ dành:
– Nín đi con, đừng khóc. Cha về nghe tin bà mất, lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!
Lời nói của bé Đản làm tôi sửng sốt:
– Ô hay, thế ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.
Tôi vội gặn hỏi thì bé Đản trả lời:
– Có một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả!
Nghe đến đây, tim gan tôi sục sôi, lửa giận bốc lên. Tôi ở chiến trường quá gian khổ, luôn thương nhớ gia đình, vậy mà vợ tôi lại thất tiết, lén lút tư tình với người khác. Tôi chạy vội về nhà, mắng nhiếc nàng, la um lên cho hả giận.
Vợ tôi nước mắt đầm đìa, phân trần, gặn hỏi nhưng tôi cố giấu lời nói của bé Đản. Bởi tôi nghĩ ” đi hỏi già, về hỏi trẻ”, lời nói của con thơ đáng tin hơn chứ. Hàng xóm qua khuyên can, bênh vực Vũ Nương, bảo rằng lúc tôi đi lính, nàng ở nhà rất hiếu thảo với mẹ chồng, khi mẹ tôi bệnh thì nàng hết lòng chăm sóc, thuốc thang, khi mẹ tôi mất thì nàng lo ma chay chu tất, một mình vất vả nuôi dạy con thơ nhưng tôi vẫn không tin , một mực kết tội và đánh đuổi nàng ra khỏi nhà. Sau đó nghe tin nàng tự vận ở sông Hoàng Giang, tôi cũng xót thương,cho người tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu.
Một hôm cùng con ngồi bên ngọn đèn, đứa con nhỏ chỉ vào bóng tôi và nói:
– Cha Đản lại đến kia kìa!
Trời ơi, thì ra người hay đến đêm đêm chính là cái bóng của Vũ Nương dỗ con khi con khóc đòi cha. Vậy mà tôi đã nghi oan cho người vợ hiền. đẩy nàng vào chỗ oan khuất phải tự vận. Chính thói hồ đồ ghen tuông của tôi đã phá tan hạnh phúc gia đình. Không ai lên án tôi nhưng tôi biết lương tâm tôi sẽ giày vò tôi suốt đời. Sự sai lầm của tôi đã phải trả giá quá đắt.
Kết bài:
Qua câu chuyện thương tâm của gia đình, tôi muốn gửi thông điệp đến mọi người. Muốn gia đình hạnh phúc thì vợ chồng phải tin tưởng, tôn trọng lẫn nhau, có sự đồng cảm sẻ chia . Đừng ghen tuông mù quáng, đừng hồ đồ cố chấp như tôi để có hối hận thì đã muộn rồi
Dàn ý đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện 3
I. Mở bài
– Trương Sinh giới thiệu về bản thân mìn mình (tên, gia cảnh, tính cách)
– Trương Sinh dẫn dắt vào câu chuyện (Có một câu chuyện làm tôi ân hận suốt đời, dù có chết tôi cũng không tha thứ cho bản thân).
II. Thân bài
1. Quá trình kết hôn và chung sống với Vũ Nương
– Vợ tôi là Vũ Nương, xinh đẹp, đảm đang, khéo léo
– Chúng tôi chung sống với nhau rất hòa thuận, hạnh phúc, háo hức chờ đốn đứa con đầu lòng.
– Đang trong thời gian mặn nồng, hạnh phúc, chiến tranh phi nghĩa xảy đến, tôi phải từ biệt mẹ già, vợ trẻ để đi chiến đấu.
– Chia tay vợ trong niềm lưu luyến, nhớ thương. Tôi xúc động nhất khoảnh khắc vợ rót chén rượu đưa tiễn tôi và nói nàng không cần vinh hoa phú quý, chỉ cần tôi được bình yên.
2. Thời gian xa nhà (Được nghe những người hàng xóm kể lại)
– Tôi đi được một tuần thì vợ sinh con trai đặt tên là Đản
– Mẹ tôi ở nhà vì quá thương nhớ tôi nên sinh bệnh
– Vợ tôi ở nhà chăm nom mẹ tôi ân cần, chu đáo, ai ai cũng phải công nhận sự hiền thảo đó
– Khi mẹ mất, vợ tôi khóc thương và lo liệu cho mẹ tôi được mồ yên mả đẹp.
– Tôi thầm tự hào và biết ơn vợ, tự nhủ với lòng sẽ yêu thương và trân trọng nàng suốt đời
3. Trương Sinh trở về và nghi oan cho vợ.
– Ba năm sau tôi trở về, trước sự ra đi của mẹ tôi đau đớn, xót xa vô cùng.
– Tôi định bế con trai ra mộ để cùng thắp nén hương cho mẹ, nhưng nó khóc lóc, không chịu nhận tôi, nói cha nó chỉ nín thin thít, đêm nào cũng đến
– Tính tôi đa nghi lại vội vàng nên vô cùng giận giữ, không để cho vợ thanh minh mà ngay lập tức đuổi đi.
4. Vũ Nương thanh minh, được giải oan và sự hối hận của chàng Trương.
– Trước cơn thịnh nộ của tôi, Vũ Nương hết lời giải thích, thanh minh, nàng hỏi tôi chuyện kia nhưng tôi cố tình không nói, tôi vẫn mắng nhiếc thậm tệ và đuổi đi mặc cho hàng xóm can ngăn
– Sau đó, vợ tôi tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang tự tử để chứng minh lòng thành. Dù vẫn còn rất giận nhưng biết tin nàng tự tử tôi cũng động lòng thương, vớt xác lên nhưng không thấy.
– Một đêm, nằm cùng bé Đản, bé chỉ tay lên chiếc bóng trên vách tường và nói đó là cha mình. Tôi bàng hoàng nhận ra nỗi oan tày đình của vợ. Tôi đau đớn, dằn vặt tự trách mình.
– Cạnh bến sông có người tên Phan Lang, vì được Linh phi dưới thủy cung đền ơn cứu mạng nên đã được cứu vớt trong một lần chạy giặc Minh.
– Ở dưới thủy cung, ông ta gặp lại vợ tôi. Nàng đã nhờ Phan Lang chuyển lời và chuyển kỉ vật đến tôi. Ban đầu không tin nhưng khi nhìn thấy vật cũ của vợ mới hốt hoảng tin theo.
– Hôm sau, tôi nghe theo lời dặn, lập đàn giải oan cho vợ, Vũ Nương hiện về đẹp lung linh. Tôi xúc động, nghẹn ngào gọi vợ, nàng chỉ thấp thoáng giữa nói vọng vào lời từ biệt tôi.
– Tôi đau đớn, ân hận, giày vò, vì những cơn ngen mù quáng của mình.
III. Kết bài
– Trương Sinh tự rút ra cho mình bài học: Vợ chồng phải biết yêu thương tôn trọng và đặt niềm tin ở nhau mới có hạnh phúc bền lâu
– Trương Sinh tự hứa với lòng sẽ ở vậy, chăm con thật tốt, bù đắp sai lầm.
Dàn ý đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện 4
1. Mở bài
– Dẫn dắt vào câu chuyện hai hơn mươi năm trước của chính mình.
– Bi kịch khiến cho gia đình tan vỡ.
2. Thân bài
a. Quá trình kết hôn và chung sống cùng vợ:
– Tôi sinh ra là con nhà phú hào, được nuông chiều. Tính cách có phần ghen tuông thái quá.
– Vũ Nương là con của một người làng bên, tôi biết đến nhờ nhan sắc và tính nết dịu hiền của nàng nên tìm mọi cách rước nàng về làm vợ.
– Nàng luôn khéo léo cư xử, dù tôi không thực tin tưởng nàng, nhưng nàng chưa từng làm điều gì khiến cho vợ chồng bất hòa.
– Chung sống được một thời gian thì triều đình có tin gọi đi lính Chiêm. Tôi vốn ít chữ nghĩa nên bị gọi đi.
– Lúc ra đi, mẹ tôi khóc mà dặn dò tôi, còn Vũ Nương thì rót rượu dặn dò tôi bình an trở về.
b. Thời gian tôi xa nhà và trở về:
– Đi lính ba năm, trải qua sinh tử đôi lần thì thế giặc tan ra, tôi được trở về quê hương.
– Khi đó, Vũ Nương đã sinh cho tôi một đứa con trai, đặt tên là Đản.
– Thế nhưng, niềm vui chẳng trọn khi mẹ già vì mong tin tôi mà đã mất.
– Mọi việc ở nhà Vũ Nương đều chu toàn, tôi thực sự vẫn coi đó là bổn phận của nàng.
c. Nghi oan cho Vũ Nương
– Tôi dẫn con ra thăm mộ mẹ, nhưng nó khóc lóc nhất quyết không theo tôi và còn hỏi tôi cũng là cha nó sao.
– Tôi sinh lòng nghi ngờ, gặng hỏi đứa con nhỏ thì nó ngây thơ bảo đêm nào cũng có một người cha đến, mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế nó.
– Nghe vậy, tôi đinh ninh trong lòng rằng vợ mình đã thất tiết, thế nên, với bản tính của mình, tôi đã không tiếc lời mắng nhiếc nàng thậm tệ mặc cho nàng thanh minh, hàng xóm nói giúp, tôi vẫn đánh đuổi nàng đi.
d. Cái chết của Vũ Nương, sự hối hận muộn màng của tôi:
– Những lời mắng nhiếc của tôi đã khiến Vũ Nương vô cùng đau khổ, nàng chỉ nói lại với tôi một lời rồi tắm rửa sạch sẽ, chạy ra bến Hoàng Giang mà trầm mình xuống đó.
– Tôi tuy lòng vẫn đau đáu sự nghi kị với nàng nhưng trong lòng cũng có chút ân hận nên đã tìm vớt xác nàng mà chẳng thấy.
– Thế rồi một đêm không ngủ được, ngồi cùng con trai bên chiếc đèn, bỗng nhiên nó trỏ lên cái bóng của tôi trên vách tường mà nói “Cha Đản lại đến kìa”. Giờ thì tôi mới hiểu được Vũ Nương, mới hiểu cho nỗi oan thấu trời kia của nàng khi bị tôi nghi oan. Thế nhưng sự đã rồi, không còn có thể cứu vãn được nữa.
– Ngày qua tháng lại, một hôm có một kẻ tự xưng Phan Lang đến tìm gặp tôi.
– Hắn kể rằng hắn được Linh Phi của Nam Hải Long Vương cứu sống khi bị đắm thuyền và đã gặp được vợ tôi ở dưới đó. Vợ tôi đã nhờ hắn nói với tôi rằng hãy lập đàn giải oan cho nàng.
– Dựa vào lời của Vũ Nương căn dặn, tôi lập đàn giải oan ba ngày ròng rã bên bến Hoàng Giang, cuối cùng đến ngày thứ ba, nàng cũng trở về.
– Nàng đứng ở giữa kiệu hoa, võng lọng rực rỡ giữa sông, nói với tôi lời từ biệt rồi biến mất.
– Tôi ân hận, dằn vặt bởi sự ghen tuông của mình đã khiến tôi đánh mất một người vợ dịu dàng, đảm đang như Vũ Nương.
3. Kết bài
– Nỗi ân hận dày vò tôi, hai mươi năm qua, tôi sống trong cô độc để nuôi lớn bé Đản.
– Giờ đây nó đã lớn khôn, chuẩn bị thành gia lập thất, hi vọng Vũ Nương ở nơi chốn xa xôi cũng nhìn thấu mà bằng lòng tha thứ cho kẻ như tôi.
Dàn ý đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện 5
1. Mở bài
– Lời giới thiệu của Trương Sinh (về quê quán, gia cảnh…)
– Lời giới thiệu của Trương Sinh về người vợ của mình (tên, tính tình, hình thức …)
2. Thân bài
– Trước khi đi lính:
+ Vừa xây dựng gia đình, cuộc sống vợ chồng rất hạnh phúc.
+ Đất nước có chiến tranh, triều đình bắt đi lính đánh giặc . Tuy con nhà hào phú, nhưng không có học nên tên phải ghi trong sổ lính đi vào loại đầu.
+ Xa gia đình trong cảnh mẹ già, vợ bụng mang dạ chửa.
– Khi trở về:
+ Mẹ đã mất, con trai đang tuổi học nói.
+ Tin vào câu nói của con nên đã hiểu lầm.
+ Ghen tuông mù quáng nên đã đẩy người vợ đến cái chết oan ức.
+ Sau đó, biết là mình đã nghi oan cho vợ nhưng việc trót đã qua rồi.
3. Kết bài
– Ân hận vì mình đã mù quáng nghi oan cho vợ khiến gia đình tan nát
– Mong mọi người nhìn vào bi kịch gia đình để rút ra bài học.
Đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện 1
Thời gian qua nhanh như cơn gió thoảng, chỉ mới thoáng chốc đã hơn hai mươi năm trôi qua, thế nhưng, sự việc ấy vẫn cứ như mới xảy ra ngày hôm qua vậy. Đến tận bây giờ, nỗi hối hận vẫn chưa bao giờ nguôi ngoai trong lòng Trương Sinh tôi. Sự ghen tuông mù quáng, sự nghi kị với vợ của mình đã khiến tôi mất đi một người vợ hiền dịu, nết na, khiến cho hạnh phúc gia đình tan vỡ.
Gia đình họ Trương tôi vốn chỉ có tôi là con trai độc nhất nên ngay từ nhỏ, tôi đã được cha mẹ vô cùng nuông chiều. Tình cách của tôi đặc biệt không tin tưởng người khác tuyệt đối bao giờ, ngay cả với những người thân trong nhà. Đến tuổi dựng vợ gả chồng, trong làng có nàng Vũ Nương, tính tình hiền dịu hết mức, lại xinh đẹp, nết na, tôi mến dung hạnh của nàng mà nhờ mẹ đem trầu cau cùng trăm lạng vàng sang rước nàng về làm vợ. Tuy là vợ chồng chung chăn chung gối, nhưng tôi cũng không thực tin tưởng Vũ Nương, bởi vậy nên luôn phòng ngừa nàng trong mọi chuyện. Nhưng Vũ Nương quả chẳng phụ lòng tôi và Trương gia luôn xử sự vô cùng khéo léo mọi chuyện, nên lấy nhau mà hai vợ chồng tôi chưa từng bao giờ bất hòa.
Thế nhưng, có những sự việc đến thật bất ngờ quá sức với tôi! Từ nhỏ, tôi vốn dựa mình là con nhà hào phú, nên chưa từng ngó qua sách vở, cho rằng chỉ cần có tiền thì có thể làm được mọi điều. Đến lúc triều đình có chiến sự biên ải, tuyển lính sung quân, tôi cũng vẫn nghĩ, mình con nhà hào môn, sẽ không bị bắt đi lính biên ải xa kia. Thế nhưng, tuy tôi con nhà hào phú thật, nhưng vì không có học thức nên trong danh sách bắt đi lính đánh Chiêm Thành, tên tôi ở ngay đầu tiên. Biết không thể tránh khỏi, tôi đành lòng chuẩn bị ra đi. Đến ngày tôi đi, mẹ tôi nuốt nước mắt mà dặn rằng:
– Nay con phải ra đi vì việc quân việc nước, mẹ biết rằng đây là thời cơ để con tạo dựng nên sự nghiệp, công danh cho mình. Thế nhưng, ngoài chiến trường, binh đao khó biết, con hãy biết giữ mình cẩn thận. Đừng vì tham công danh, lợi ích mà mắc lừa quân địch. Mẹ chẳng mong con về mang được tiếng thơm, chỉ mong sao con trai mẹ trở về trong bình an là được. Con hãy nghe lời mẹ dặn thì mẹ ở nhà mới yên lòng được.
Tôi nghe lời mẹ dặn hết sức kính cẩn, quỳ xuống đất, dập đầu mà vâng lời mẹ. Còn Vũ Nương – vợ tôi, nàng buồn rầu rót chén rượu đầy tràn rồi dặn tôi rằng:
– Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm, vang danh trở về quê cũ, chỉ xin ngày về, chàng mang theo được hai chữ bình yên trở lại, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công; lời tâu công lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trong mảnh trăng Trường An, nhanh tay đập áo rét, ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn vàn thư tín, chỉ e không một tin về. Chàng ở nơi xa xôi, còn mình thiếp ôm nỗi quan hoài, thương nhớ!
Vũ Nương nói xong mà nước mắt đã chảy tràn, khiến tôi và mọi người không khỏi xúc động. Vợ tôi vẫn luôn hiền dịu như thế, chu đáo như thế, lúc ấy, tôi chỉ mong rằng mấy năm ròng xa cách, nàng hãy giữ trọn một đạo với chồng là được. Lạy mẹ già thêm một lạy, ta vội xách tư trang quay gót, tới chỗ tập hợp binh lính sung quân.
Miền biên ải xa xôi, đêm ngày hành quân vất vả. Ba năm ròng rã đánh giặc Chiêm Thành, vào sinh ra tử đã không ít lần, cuối cùng quân giặc ngoan cố cũng đã chịu đầu hàng. Ba năm ròng, cuối cùng tôi cũng được trở về nhà.
Thế nhưng, niềm vui ngắn chẳng tày gang. Về tới nhà, tôi nhận được tin rằng, mẹ tôi vì mong ngóng tin con trai nơi biên ải, đã lâm bệnh mà qua đời, còn tôi thì có thêm một đứa con trai tên là Đản. Mẹ mất, trong lòng tôi buồn vô hạn, cũng may còn có đứa con trai này khiến tôi có chút niềm vui trong lòng. Còn vợ tôi, Vũ Nương, nàng vẫn vậy, vẫn luôn ân cần, nhẹ nhàng và chu đáo như thế, mọi việc trong nhà từ khi tôi đi, mẹ mất, nàng một mình quán xuyến tất thảy. Ngày tôi trở về, nàng vui mừng vô cùng, vợ chồng con cái lại được quây quần sum họp hưởng hạnh phúc.
Hôm sau, tôi dẫn con trai ra ngoài thăm mộ người mẹ già, thế nhưng, thằng bé nhất định không chịu theo tôi còn gào khóc om sòm. Tôi mới dỗ dành nó rằng:
– Con nín đi, đừng khóc nữa mà cha buồn lòng! Cha rời xa bà ba năm, nay trở về mà bà đã mất, thật trớ trêu thay!
Đứa con tôi mới ngây ngô nhìn tôi rồi hỏi:
– Ô hay, ông cũng là cha của tôi sao? Ông biết nói thật lạ quá chứ cha tôi trước kia chẳng nói gì cả bao giờ!
Ô, sao có chuyện lạ đời, tôi đi lính đã ba năm nay, năm nay mới trở về, mới được gặp con trai, sao nó lại nói đã từng có cha trước kia, việc này là như thế nào? Tôi mới gặng hỏi đứa con:
– Cha trước kia là ai? Sao lại đến mà không nói gì?
Câu trả lời của đứa con làm tôi lặng người đi:
– Trước đây, ông chưa về, đêm nào cha tôi cũng đến ngồi cùng mẹ tôi, mẹ làm gì cũng làm theo, mẹ ngồi cũng ngồi, đi cũng đi, nhưng chẳng bao giờ bế tôi cả!
Một người đàn ông đêm nào cũng đến ư? Trời ơi, một người phụ nữ có chồng ở nhà chồng một mình vậy mà còn dẫn đàn ông đến ở qua đêm ư? Phải chăng Vũ Nương kia đã làm gì có lỗi với Trương Sinh tôi, phải chăng nàng ta đã phản bội tôi mà thất tiết với ai rồi? Ba năm chờ chồng mà lại qua lại với người đàn ông khác, sao còn xứng với tôi đây?
Về tới nhà, tôi mắng vợ một trận thật lớn để hả giận. Tôi mắng nàng ta là người phụ nữ hư thân mất nết, không biết xấu hổ, chồng đi chinh chiến ba năm lại chẳng biết giữ tròn đạo làm vợ. Vũ Nương lúc đầu ngạc nhiên, nàng trân mắt nhìn tôi đăm đăm, rồi nàng khóc mà rằng:
– Thiếp vốn con nhà nghèo, may mắn được gả cho chàng, vào Trương gia cùng chàng lập nên ơn nghĩa vợ chồng. Chia xa khi vừa lập gia thất được nửa năm, xa chàng, thật lòng thiếp vô cùng buồn tủi! Ba năm chàng rời xa, tưởng lòng đã lạnh, chưa một lần thiếp dám nghĩ tới người nào khác, ngõ liễu tường hoa chưa bao giờ ngó ngàng. Thiếp đã giữ trọn đạo vợ chồng với chàng, mong rằng chàng hãy soi tỏ, đừng vội tin lời người ngoài mà nghi oan cho thiếp!
Thế nhưng, những lời nói ấy của nàng khi ấy, tôi chẳng tin lấy nửa lời. Trong lòng tôi chỉ còn sự giận dữ vì bị phản bội, chỉ một mực nghi kị nàng đã làm việc có lỗi với tôi. Tôi chưa từng kể với nàng, tôi nghe con trai nói, mặc dù nàng gặng hỏi, tôi cũng chưa từng để tâm những lời nói thanh mình của nàng. Nếu khi ấy, tôi không ghen tuông mù quáng mà biết lắng nghe Vũ Nương, lắng nghe những lời giải thích của nàng, chịu nghe những lời khuyên ngăn của hàng xóm thì tôi đã chẳng phải chịu cảnh chăn lìa gối chiếc với nàng bao năm qua.
Lúc ấy, tôi chỉ một mực cho rằng nàng thất tiết, mỗi ngày đều dùng lời tệ bạc mà mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi. Vào ngày thứ bảy sau chuyện đó, Vũ Nương vừa khóc vừa nói với tôi rằng:
– Thiếp nương tựa vào chàng vì niềm vui gia đình, vì con trai của chúng ta, chưa bao giờ có ý nghĩ rời xa gia đình này. Đâu thể ngờ, chàng rời đi ba năm, trở về lại vì một lời của kẻ khác mà nghi oan cho rằng thiếp ở nhà không giữ trọn đạo vợ chồng. Nay sự đã đến nước này, thiếp cũng không thể trần tình, thanh minh với chàng được nữa. Thiếp đâu có thể còn dám ngước nhìn lên núi Vọng Phu cao vời vợi kia nữa!
Thế nhưng, những lời ấy đâu lọt vào tai tôi nửa chữ, tôi chỉ một mực chì chiết, nghi kị nàng. Nói xong, nàng đứng dậy, tắm rửa thay quần áo rồi ra đi. Lúc đó, tôi cứ tưởng, nàng thẹn với chồng con, với làng xóm nên ra đi, ai ngờ đâu, nàng lại ra sông mà gieo mình xuống, chỉ để chứng tỏ lòng trung trinh của mình.
Nghĩ lại đến đây, tôi thật vô cùng ân hận, chỉ vì sự nghi ngờ vô cớ của mình mà đã đẩy người con gái dịu dàng, xinh đẹp như vợ tôi vào chốn đường cùng. Lúc nghe tin nàng gieo mình xuống sông, tôi tuy còn giận ở trong lòng nhưng nghĩ lại ơn nghĩa vợ chồng, tìm người vớt thây nàng, thế nhưng chẳng thấy đâu cả. Lòng ôm sầu hận, tôi chẳng thể nào ngủ được. Một buổi tối, khi đang ngồi cùng con trai bên chiếc đèn khuya hiu hắt thì bất chợt con trai tôi reo lên rằng:
– Cha Đản lại đến rồi!
Tôi bất ngờ ngẩng đầu nhìn tứ phía, nhưng chẳng thấy tăm hơi một người nào, tưởng con chơi trò nói đùa, mới gặng hỏi con ở đâu. Nó mới nhanh chân chạy lại bức vách rồi trỏ vào cái bóng của tôi in trên vách mà bảo:
– Đây này!
Tôi như chết lặng đi, giờ thì tôi đã hiểu mọi cơ sự rồi. Chắc hẳn vợ của tôi đã nói với con rằng cái bóng trên vách là cha của nó. Tôi đã thật ngu ngốc khi không nói rõ ràng với vợ của mình, để giờ đây, dù ân hận, tôi cũng chẳng thể làm gì được nữa. Vũ Nương của tôi đã chẳng thể trở về bên cạnh tôi được nữa rồi!
Ngày tháng cứ trôi qua chậm rãi, nỗi ân hận vì đánh mất người vợ hiền cứ day dứt trong lòng tôi. Cho tới một hôm, có người tự xưng là Phan Lang, tới tìm gặp tôi. Tôi lạ lùng bởi tôi không hề biết người này. Thế nhưng, người tên Phan Lang ấy đem đến cho tôi một tin còn đáng giật mình hơn nữa: vợ tôi còn sống.
Ban đầu, tôi không tin, chỉ coi đó là trò đùa của anh ta. Thế nhưng khi anh ta đưa chiếc thoa vàng rồi kể câu chuyện lưu lạc dưới thủy cung của vua Nam Hải, gặp lại vợ tôi, cùng nàng hàn huyên rồi được nhờ là đưa cho tôi chiếc thoa này, bấy giờ tôi mới tin là sự thật. Phan Lang còn dặn rằng, Vũ Nương muốn nhờ tôi lập một đàn tràng giải oan ở bến Hoàng Giang – nơi vợ tôi gieo mình xuống thì nàng sẽ trở về. Tôi vô cùng kinh sợ, bán tính bán nghi, thế nhưng, nếu Vũ Nương – vợ tôi được trở về thì thế nào, tôi cũng bằng lòng.
Vậy là tôi bèn theo lời nàng, lập một đàn tràng ở bến Hoàng Giang ba ngày ba đêm ròng rã, vậy nhưng vẫn chưa thấy Vũ Nương xuất hiện. Đến ngày thứ tư, lúc tôi tưởng chừng hi vọng đã dần cạn kiệt thì quả nhiên thấy một chiếc kiệu hoa rực rỡ xuất hiện giữa dòng nước mênh mông. Theo sau kiệu lớn là hơn năm mươi chiếc xưa, với cờ tàn tán lọng, cả một khúc sông bỗng rực rỡ, chói lóa, huyền ảo. Rồi từ trong kiệu hoa, Vũ Nương bước ra, mặc trên mình bộ y phục lấp lánh, tôi hoa mắt chờ đợi, khi xưa nàng đã vô cùng xinh đẹp, khoác lên bộ y phục này thì càng xinh đẹp hơn gấp bội phần. Thế nhưng, khi tôi vội vàng cất tiếng gọi thì nàng không từ từ tiến lại bờ mà chỉ đứng giữa dòng mà nói vọng vào với tôi:
– Đa tạ chàng đã giúp thiếp thực hiện nguyện ước của mình. Nhưng nay mây tan gió tạnh, thiếp đã thề nguyện ở lại cùng sống chết để cảm tạ ơn nghĩa của Đức Linh Phi. Thiếp chẳng thể trở về nhân gian sum họp cùng chàng được nữa! Mong chàng hãy nuôi nấng, chăm sóc bé Đản nên người, vậy là thiếp mãn nguyện rồi. Thiếp đa tạ chàng!
Nói xong, nàng vén kiệu mà bước vào, cả kiệu hoa và đoàn xe cứ thoắt ẩn thoắt hiện rồi loang loáng mờ dần, biến mất vào trong hư không. Tôi vội vã gọi tên nàng, thế nhưng, chẳng có ai đáp lại lời tôi nữa, Vũ Nương đã thực sự biến mất rồi. Tôi thất thểu bước về nhà, trong lòng ôm đầy nỗi ân hận. Chính tôi là người đã đẩy nàng vào bước đường cùng, giờ đây, chẳng có gì có thể cứu vãn được sự việc nữa. Mọi việc thực sự đã kết thúc rồi.
Giờ đây, hơn hai mươi năm sau khi sự việc đã xảy ra, tôi vẫn ôm trong mình nỗi ân hận vô vàn. Dù sau này, tôi đã dần sửa đổi tâm tình mong có thể vơi bớt nỗi lòng, thế nhưng, hình bóng của Vũ Nương vẫn luôn luôn hiện ra trong tâm trí tôi. Có lúc tôi mong được trở lại là Trương Sinh của hai mươi năm trước để có thể nói một lời xin lỗi với người vợ thân yêu của mình. Thế nhưng, mọi chuyện đã lỡ, chẳng có gì có thể thay đổi được nữa. Con trai tôi đã lớn khôn, thành người, chuẩn bị thành gia lập thất, tôi đã nuôi dạy nó bằng cả tình yêu với Vũ Nương. Hi vọng nàng ở dưới chốn thủy cung cũng luôn dõi theo cha con tôi mỗi ngày và vui mừng vì điều đó.
Đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện 2
Tôi sinh ra trong một gia đình khá giả ở Nam Xương. Vừa tới tuổi đôi mươi thì được cha mẹ cưới vợ cho. Vợ tôi là Vũ Thị Thiết, dung mạo đoan trang, tính nết hiền lành, chăm chỉ.
Chúng tôi sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc và cùng háo hức chờ đợi đứa con đầu lòng sắp ra đời. Bất ngờ, chiến tranh bùng nổ, loạn lạc xảy ra khắp chốn. Nhận được lệnh sung vào lính, tôi đành chia tay mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận.
Lúc tiễn đưa, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên:
– Con ráng giữ mình nơi mũi tên hòn đạn, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường cho người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được.
Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Vợ tôi rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng:
– Chàng ra đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong chàng được đeo ân phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao. Rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù thư tín có nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.
Nàng nói đến đây, mọi người đều ứa nước mắt. Rồi tiệc tiễn vừa tàn, tôi dứt áo lên đường. Mọi vật xung quanh vẫn như cũ, nhưng lòng tôi đã bùi ngùi bởi cảnh sinh li và mối tình ngàn dặm quan san cách trở.Tôi đi được một tuần thì vợ tôi sinh con trai. Nàng đặt tên cho con là Đản. Có đứa bé, cửa nhà cũng bớt phần hiu quạnh. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Mẹ già nhớ thương, lo lắng cho tôi đến nỗi lâm bệnh nặng. Biết không sống được, bà nói với vợ tôi rằng:
– Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải là không muốn đợi chồng con trở về. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết, chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi, chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được, sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn. Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ.
Dứt lời, mẹ tôi nhắm mắt. Vợ tôi khóc lóc xót thương và lo liệu chôn cất cho mẹ tôi được mồ yên mả đẹp.
Một năm sau, giặc giã đã bị dẹp yên, tôi khăn gói trở về quê cũ. Biết tin mẹ đã qua đời, tôi đau đớn lắm! Đón đứa con trai từ tay vợ, tôi bế con ra mộ mẹ để thắp nhang. Ra đến đồng, nó quấy khóc mãi, tôi dỗ dành sao cũng không chịu nín. Tôi bảo con:
– Nín đi con, đừng khóc nữa! Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi!
Bất chợt, con tôi bi bô nói:
– Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.
Tôi ngạc nhiên gặng hỏi thì con tôi kể rằng đêm nào cũng có một người đàn ông đến nhà. Mẹ nó ngồi cũng ngồi, mẹ nó đi cũng đi theo, nhưng không bao giờ bế nó cả.
Tính tôi vốn đa nghi. Nghe con nói vậy thì cơn ghen chợt bùng lên dữ dội. Tôi vội về nhà, la hét om sòm cho hả giận. Vợ tôi ôm mặt khóc mà rằng:
– Thiếp vốn con nhà nghèo khó, may được nương tựa nhà giàu. Vợ chồng sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguôi lòng, ngõ liễu đường hoa, chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết như lời chàng nói. Dám xin chàng cho thiếp được bày tỏ, để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng nghi oan cho thiếp!
Nhưng mặc cho nàng thanh minh thế nào tôi cũng không tin. Nàng hỏi tôi chuyện kia do ai nói thì tôi giấu không cho nàng biết. Tôi mắng nhiếc nàng thậm tệ rồi đuổi ra khỏi nhà, dù hàng xóm hết lời bênh vực. Cuối cùng, nàng ngậm ngùi vừa nói vừa khóc:
– Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân con én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa?
Đoạn nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:
– Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám! Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, xin vào nước làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
Nói xong, nàng gieo mình xuống sông mà chết. Tuy giận là nàng thất tiết nhưng thấy nàng tự vẫn, tôi cũng động lòng thương, cố vớt thây nàng để chôn nhưng tìm mãi không được. Một đêm, tôi ngồi buồn bã trước ngọn đèn khuya. Chợt đứa con trai bật thốt: – Cha Đản lại đến kia kìa! rồi chỉ tay vào bóng tôi in trên vách: – Đây này! Tôi chợt hiểu ra tất cả và ân hận vô cùng!Thì ra trong thời gian tôi vắng nhà, đêm đêm, vợ tôi thường đùa với con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Tôi thấu hiểu nỗi oan tày trời của vợ và trách mình sao quá nhẫn tâm, nhưng mọi chuyện trót đã qua rồi!
Ở bến sông cạnh làng, có người giữ chức quan đầu mục tên là Phan Lang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh xin tha mạng. Sáng ra, có người biếu ông một con rùa mai xanh. Nhớ lại giấc mơ, ông liền thả con rùa ấy xuống sông.
Mấy năm sau, giặc Minh xâm phạm cửa ải Chi Lăng, dân chúng hoảng sợ lên thuyền chạy trốn ra ngoài biển, không may gặp bão lớn, chết đuối cả. Thây Phan Lang dạt vào một động rùa ngoài hải đảo. Có người đàn bà là Linh Phi trông thấy nói rằng: – Đây là vị ân nhân đã cứu sống ta thuở xưa! Rồi bà ta lấy thuốc thần cho uống. Lát sau, Phan Lang sống lại.
Linh Phi truyền mở tiệc thết đãi. Trong đám người dự tiệc, có một mĩ nhân chỉ trang điểm sơ qua, nét mặt rất giống Vũ Nương. Phan Lang bèn hỏi chuyện và được nàng cho biết mình là Vũ Thị Thiết, người cùng làng, vì oan khuất mà phải gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn và được các tiên nữ dưới thủy cung đưa về đây cùng chung sống với Linh Phi.
Trước khi Phan Lang được đưa ra khỏi thủy cung, Vũ Nương có nhờ ông ta nói với tôi rằng sẽ có ngày nàng tìm về. Nếu tôi còn nhớ tình xưa nghĩa cũ thì hãy lập một đàn giải oan ở bến sông.
Về đến làng, Phan Lang tìm gặp tôi, kể lại mọi chuyện, nhưng tôi không tin. Lúc ông ta đưa ra kỉ vật làm tin là chiếc hoa vàng của vợ tôi thì tôi sợ hãi nhận rằng đây đúng là vật mà nàng mang theo lúc ra đi.
Sáng hôm sau, tôi làm theo đúng lời nàng dặn, lập đàn giải oan suốt ba ngày đêm ở bến sông. Quả nhiên, tôi nhìn thấy Vũ Nương ngồi trên chiếc kiệu hoa ở giữa dòng, theo sau là năm mươi cỗ xe trang trí cờ tán, võng lộng rực rỡ, lúc ẩn lúc hiện. Tôi vội gọi thật lớn nhưng nàng vẫn ở giữa sông mà nói vọng vào:
– Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, nhưng thiếp không thể trở về nhân gian được nữa!
Trong phút chốc, tất cả tan biến. Tôi gục đầu thổn thức. Một sự ân hận ghê gớm vò xé lòng tôi. Chỉ vì một cơn ghen mù quáng mà tôi đã làm cho vợ chồng, mẹ con lâm vào cảnh sinh li tử biệt. Sai lầm của tôi không phương cứu chữa. Tôi chỉ còn mong ước mọi người hãy nhìn vào thảm cảnh của gia đình tôi mà rút ra bài học: Đã là vợ chồng thì hãy thương yêu, tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau. Có như vậy, hạnh phúc mới được bền lâu.
Đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện 3
Tôi là Trương Sinh, con một nhà hào phú nức tiếng giàu có trong vùng. Từ nhỏ, tôi đã chẳng mặn mà gì với việc dùi mài kinh sử nên lúc lớn cũng chỉ sống dựa vào nếp nhà. Nhiều người nói tôi trăng hoa ong bướm nhưng tôi thì không nghĩ vậy, vì từ khi lớn lên đến giờ, tôi chỉ thích có mỗi một người đó là Vũ Thị Thiết người con gái ở Nam Xương, nhà nghèo nhưng nổi tiếng khắp nơi về nết na và tư dung tốt đẹp. Tôi thưa với mẹ. Tính ngày tháng tốt, mẹ sửa soạn trăm lạng vàng, sang nhà Vũ Nương xin cưới nàng cho tôi.
Tuy là con nhà nghèo nhưng nàng rất “công dung ngôn hạnh”, vì vậy cuộc sống lứa đôi của chúng tôi vô cùng hạnh phúc. Nhưng “ngay vui ngắn chẳng tày gang”, chẳng bao lâu sau, đất nước có chiến tranh, tôi bị sung vào lính. Khi đó, Vũ Nương – vợ tôi đang mang thai đứa con đầu lòng. Ngày chia tay bịn rịn, lưu luyến đầy nước mắt. Tôi cúi đầu thương cảm nhận lời dạy bảo của mẹ già. Tôi đau đớn nghe những lời li biệt của Vũ Nương rồi lên đường ra nơi biên ải. Trong lòng vừa thương nhớ vợ con, vừa lo lắng cho mẹ già.
Ở nơi chinh chiến, tôi không nguôi nhớ về ngôi nhà đơn sơ với mẹ già và người vợ trẻ. Mãi rồi cuộc chiến cũng chấm dứt, tôi được trở về quê. Vừa đặt chân đến nhà thì hay tin mẹ già đã mất, tôi vô cùng đau xót, tiếc thương. Đứa con trai – tên Đản – lúc ấy đã biết nói. Cảnh nhà heo hút, sầu thảm. Tôi bế con ra thăm mộ mẹ. Đứa con chưa bén hơi cha cứ quấy khóc hoài. Tôi cố gắng dỗ con:
– Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi.
Đản ngây thơ hỏi lại tôi:
– Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói? Chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nghe con nói thế, liền gạn hỏi thằng bé, đứa con nói:
– Trước đây có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.
Nghe lời con trẻ, tôi vừa đau lòng vừa tức giận. Vậy ra vợ tôi là người đàn bà hư hỏng, trong lúc chồng đi chiến trường thì ở nhà lăng loàn với người đàn ông khác. Thế mà, ở nơi bom rơi đạn lạc, tôi đã quên cả mình để không ngừng nhớ tới nàng, mong ngày mong đêm để được về đoàn tụ với nàng.
Về đến nhà, tôi la um lên cho hả giận. Vợ tôi đã hết lời thanh minh, hàng xóm đã hết lời khuyên giải, nhưng mặc, tôi đuổi Vũ Nương đi. Biết tôi khong tin vào sự thật, nàng đau đớn ôm con lần cuối cùng rồi ra khỏi nhà.
Chiều muộn hôm đó, tôi nghe tin nàng đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Tuy vẫn giận nhưng tôi cũng mang lưới ra để vớt xác nàng nhưng vớt mãi suốt đêm cũng chẳng thấy đâu.
Một đêm vắng vẻ, tôi ngồi ôm con bên ngọn đèn mới thắp, lòng buồn rầu nghĩ đến Vũ Nương. Bỗng thằng bé reo lên:
– Cha Đản lại đến kia kìa!
Tôi vội hỏi đâu thì nó chỉ vào cái bóng của tôi trên tấm vách. Tôi chợt hiểu ra mọi chuyện. Trời ơi! Chính tôi đã giết vợ mình. Vợ tôi đã chết oan uổng vì sự hồ đồ, đa nghi, cả ghen, ích kỉ,… của chính tôi. Tôi hối hận quá. Nhưng muộn mất rồi. Chính tôi đã làm tôi mất vợ, làm bé Đản mất mẹ. Tôi ân hận quá nhưng muộn mất rồi, muộn mất rồi…
Đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện 4
Đời người không ai là không phạm sai lầm cả, quan trọng hơn là biết sửa sai. Thế nhưng với tôi khi mắc sai lầm đã không cách nào cứu vớt được, chỉ còn lại sự đau buồn, ân hận, xót thương về những điều đã xảy ra vài năm trước đây…Tôi – Trương Sinh sinh và lớn lên trên mảnh đất Nam Xương. Cha tôi chẳng may mất sớm, nhà chỉ còn lại một mình mẹ và tôi. Hai mẹ con nương tựa vào nhau mà sống. Mẹ luôn muốn tôi lấy vợ sớm để bà có cháu bồng bế, thêm người cho vui cửa vui nhà. Đến tuổi cập kê mẹ đã tìm người mai mối rồi cưới cho tôi một cô gái vô cùng xinh đẹp, nổi tiếng đảm đang ở trong vùng tên là Vũ Thị Thiết. Tôi mừng lắm bởi gia cảnh nhà mình cũng bình thường, mẹ góa con côi, tôi được cái ngoan ngoãn chịu khó làm ăn nhưng cũng không phải con quan chức, địa chủ gì vậy mà nàng lại chịu lấy tôi. Tôi rất yêu vợ, cũng vì yêu nhiều nên đôi khi tôi hay ghen tuông bóng gió. Đó là một thói xấu nhưng vì quá yêu nàng nên tôi không kiềm chế được cảm xúc nóng nảy mối khi có người đàn ông nào muốn tiếp cận hay đến gần Vũ nương.
Gia đình nhỏ bé của tôi nay lại thêm được Vũ nương đảm đang chăm sóc, vun vén mà tôi có cảm giác thật hạnh phúc, yên bình. Chắc đó là khoảng thời gian đẹp nhất cuộc đời tôi. Mẹ tôi đã già yếu, bà thương con dâu như chính con ruột của mình, nàng cũng hết mực hiếu thảo với bà. Chúng tôi sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc và cùng háo hức chờ đợi đứa con đầu lòng sắp ra đời. Bất ngờ, chiến tranh bùng nổ, loạn lạc xảy ra khắp chốn. Nhận được lệnh sung vào lính, tôi đành chia tay mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận.
Lúc tiễn đưa, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên:
– Con ráng giữ mình nơi mũi tên hòn đạn, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường cho người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được.
Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy.Còn Vũ nương, nàng rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng:
– Chàng ra đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong chàng được đeo ân phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao. Rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù thư tín có nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.
Nhìn hai người phụ nữ quan trọng nhất đời mình như thế, tôi xúc động ngôn nguôi. Trong lòng nảy sinh cảm giác thật ấm áp và an tâm khi nhà cửa, gia thất đã có đôi bàn tay khéo léo của thê tử chăm sóc. Ngày đi lính , lòng nặng trĩu quay lưng về phía ngôi nhà của chúng tôi, tôi bước đi thật nhanh, không ngoảnh đầu lại.
Tôi đi được một tuần thì vợ tôi sinh con trai. Nàng đặt tên cho con là Đản. Có đứa bé, cửa nhà cũng bớt phần hiu quạnh. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Mẹ già nhớ thương, lo lắng cho tôi đến nỗi lâm bệnh nặng. Vũ nương chẳng ngại khó nhọc, nàng luôn luôn kề cận chăm sóc mẹ tôi cho đến khi bà từ giã cõi trần. Từ đó căn nhà nhỏ vắng đi một bóng người, chỉ còn hai mẹ con nàng sống nương tựa vào nhau. Đản không biết mặt cha nó là ai, bởi vì tôi đã đi lính ròng rã mấy năm trời xa cách.
Ngày giặc bị đánh tan là lúc tôi khăn gói trở về quê nhà. Vừa tới cổng nhà nghe người hàng xóm thông báo tin dữ mẹ tôi đã qua đời hơn nửa năm trước tôi đau khổ tột độ, vội vàng vứt chiếc túi cói đựng đồ dùng cá nhân xuống nhà, rồi vội vàng ra thăm mộ mẹ. Nhưng tôi chưa biết mẹ được chôn cất chỗ nào nên dắt thằng bé con trai tôi đi theo, bởi lúc đó vợ tôi đang bận đi chợ mua đồ ăn về đãi tôi thắng giặc trở về. Trong lúc tôi cõng con trai đi thăm mộ mẹ, trên đường đi nó cứ khóc suốt không chịu nhận tôi là ba nó. Nó còn đấm thùm thụp vào lưng tôi bảo “Thả tôi ra ông không phải là ba tôi. Ba tôi đêm nào cũng tới”.Người xưa có câu “Đi hỏi già về nhà hỏi trẻ” nên nghe con trai nói thế tôi bực lắm. Tôi tin rằng vợ tôi đã sinh hư trong lúc vắng chồng quạnh hiu, nên mềm yếu với tên nào đó rồi. Tôi vội vàng thắp hương, lạy mẹ ba lạy rồi tức tốc về nhà gặp vợ hỏi rõ đầu đuôi. Vừa đi lòng tôi vừa nóng như lửa đốt, thực sự rất tức giận.
Khi tôi bước vào nhà, vợ tôi đang loay hoay dưới bếp với rất nhiều món ngon, nàng bước ra trên mặt còn dính một vệt nhọ nồi, trông nàng lúc ấy rất xinh vô cùng duyên dáng và đáng yêu. Nhưng máu ghen trong người tôi đang lên cao ngút trời tôi không thể nào mà nguôi giận ngay được. Tôi quắc mắt hỏi vợ : Con trai nói rằng tối nào ba nó cũng đến thăm, đấy là thằng nào? Thằng nào hả?. Cơn giận bùng lên như ngọn lửa, thiêu đốt hoàn toàn lí trí của tôi. Tôi nóng nảy mắng mỏ ,quát tháo Vũ nương, mặc cho nàng có khóc lóc như thế nào tôi cũng không màng đến. Khi cơn giận lên đến đỉnh điểm, tôi đã thẳng thừng buông lời lạnh lùng đuổi nàng đi ra khỏi nhà. Mấy người hàng xóm đến can ngăn nhưng tôi còn quát cả họ, đuổi họ về. Vũ nương vẫn khóc, từng giọt nước mắt thấm ướt vạt áo nàng. Lòng tôi chợt thấy có cái gì đó nhói lên nhưng rồi ngọn lửa tức giận đã lấn át hết mọi thứ. Tôi mù quáng đuổi nàng đi, đóng cánh cổng nhà lại.
Vũ nương bị đuổi ra khỏi nhà, tôi cứ nghĩ nàng ấy sẽ đi về nhà mẹ đẻ hoặc đến nhà bà con nào đó xin tá túc. Nhưng không vợ tôi tắm rửa sạch sẽ, rồi thay xiêm y ra thành Hoàng Gia ngửa mặt than trời xin ông trời nếu như ông có mắt thì hãy chứng giám cho sự trinh tiết đức hạnh của nàng. Rồi nàng tôi gieo mình xuống sông tự tử. Nàng mất rồi. Tôi giật mình. Thật sự là nàng đã ra đi rồi … Tại sao lại thế, lòng tôi đau đớn nhìn xuống dòng nước lặng. Tôi không nghĩ nàng lại làm quyết liệt tới như thế. Tôi đâm ra oán giận mình đã quá mê muội nếu nàng không trong sạch thì sao lại phản ứng mạnh tới như thế. Tính ghen tuông đã làm tôi gián tiếp dẫn đến cái chết của Vũ nương. Người con gái đáng thương ấy, tôi thương nàng nhưng lại làm nàng tổn thương đến mất cả tính mạng chỉ vì nàng muốn minh chứng cho lời giải thích của nàng với tôi là sự thật.
Đêm đến, trong căn nhà lạnh lẽo. Tôi nằm mãi không ngủ được con trai thì kêu khóc đòi mẹ, tôi dỗ mãi nó mới nằm im được một lúc. Tôi cũng không ngủ được nên dậy thắp ngọn đèn lên cho sáng sủa. Khi nhìn thấy bóng của tôi trên vách tường thằng bé Đản con trai tôi mừng rỡ khoe tôi “cha con đó”. Câu nói của nó làm tôi giật mình thức tỉnh, hóa ra tôi đã nghi oan cho vợ đẩy nàng tới cái chết thê lương.Hình ảng kí ức tái hiện lại vô cùng đau thương. Mọi thứ diễn ra quá nhanh, tôi cư xử quá lạnh lùng và tàn nhẫn với Vũ nương. Nàng chỉ mong tôi tin nàng. Thế nhưng tôi đã không làm được điều đó. Giờ tôi có ân hận , đau buồn đến đâu cũng chẳng thể làm nàng quay về với gia đình này nữa. Con tôi đã mất mẹ tại vì người cha vô tâm của nó…
Gần nhà tôi có một người làm nghề đánh cá tên Phan Lang một lần ông áy nằm mơ thấy một cô gái xin tha mạng, khi tỉnh dậy nhặt được một con rùa rất to nên ông ấy nhớ tới giấc mơ bèn thả con rùa về biển. Một hôm người này đi biển bị lật thuyền được một cô gái cứu giúp, hỏi ra mới biết cô gái này chính là vợ tôi. Vợ tôi vì oan khuất mà tìm tới cái chết làm lay động thủy cung nên được cứu vớt. Nàng có nhờ Phan Lang nhắn với tôi rằng: Chàng hãy lập đàn giải oan cho thiếp, thiếp sẽ hiện về. Ban đầu tôi bán tính bán nghi không tin hết lời người đàn ông này nói nhưng khi nhận được chiếc hoa vàng tôi đã tin. Đây thật sự là vật dụng của Vũ nương.
Tôi bèn theo lời Phan lập một dàn giải oan trên bến sông.Vũ nương hiện lên thật nhưng lúc ẩn lúc hiện.Tôi vội gọi nhưng nàng vẫn ở giữa dòng sông mà nói với vào:
-Thiếp cảm ơn, ơn đức của Linh Phi đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng về lại được nhân gian nữa.
Trong phút chốt cảnh tượng tan biến. Tôi gục đầu thổn thức. Một sự ân hận ghê gớm vào tâm can tôi. Chỉ vì một cơn ghen mù quáng mà tôi đã làm cho vợ chồng, mẹ con phải li biệt mãi mãi. Sai lầm của tôi không thể nào cứu chữa được nữa. Tôi mong mọi người hãy nhìn vào tôi mà rút ra bài học cho chính bản thân mình, rằng đã kết nghĩa trăm năm, muối mặn tình nồng thì vợ chồng hãy thương yêu tin tưởng lẫn nhau có như vậy hạnh phúc mới bền vững mãi mãi được.
Đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện 5
Bóng nàng ẩn hiện trên sông, nói lời tạ từ tôi và con, rồi nàng biến mất…. Tôi tha thiết gọi tên nàng để níu kéo nhưng nàng đã vĩnh viễn biến mất, vĩnh viễn rời xa cha con tôi. Tất cả cũng chỉ tại tính ghen tuông mù quáng, mà giờ tôi đã mất người vợ thảo hiền, nết na.
Tôi vốn quê ở Nam Xương, nhà giàu có nhưng tôi lại ham chơi hơn ham học, nên vừa ngoài hai mươi, mẹ tôi đã kén vợ cho tôi. Nàng tên Vũ Nương người con gái thùy mị nết na, lại thêm phần tư dung tốt đẹp. Tôi hài lòng về vợ mình lắm, nhưng tính tôi lại hay ghen, sợ vợ mình xinh đẹp, thùy mị như vậy sẽ nhiều người theo đuổi nên tôi vẫn hết sức phòng ngừa. Biết tôi tính như vậy nên Vũ Nương cũng hết sức giữ gìn, bởi vậy gia đình tôi luôn được êm đềm, yên ấm. Bởi vậy, tôi càng yêu nàng hơn.
Nhưng cuộc sống gia đình hạnh phúc chẳng được bao lâu, chiến tranh xảy ra, tôi đứng đầu trong danh sách đi lính. Ngày đưa tiễn tôi lên đường cả mẹ và nàng đều khóc hết nước mắt, mong tôi bình an trở về. Những năm tháng ở chiến trường tôi nhớ gia đình tha thiết, nhớ mẹ già ở nhà mong ngóng, nhờ người vợ hiền thục. Tôi chỉ mong chiến tranh nhanh nhanh kết thúc để tôi được trở về bên gia đình.
Ba năm chiến tranh qua đi, tôi về nhà lòng đầy hứng khởi, mong nhớ. Nhưng ngày tôi về lại ấp xuống biết bao tai họa. Mẹ tôi vì thương nhớ tôi quá nhiều mà sinh bệnh nên đã mất. Tôi bế đứa con nhỏ hơn một tuổi ra thăm mộ mẹ, nhưng bé Đản khóc lớn, không chịu đi cùng tôi, tôi dỗ dành:
– Nín đi con, đừng khóc! lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!
Con tôi nói:
– Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không giống như cha trước kia chỉ nín thin thít.
Tôi ngạc nhiên, sững sờ, tim bỗng nhói đau, máu ghen trong người nổi lên, tôi hỏi dồn thằng bé về người đàn ông đó. Thằng bé hồn nhiên đáp lại:
– Đêm nào cũng có một người đến, mẹ ngồi người đó cũng ngồi, mẹ đi người đó cũng đi, nhưng người đó không bao giờ bế Đản cả.
Đến giờ tôi không còn đủ bình tĩnh nữa, vợ tôi thảo hiền, nết na chỉ là cái vỏ bề ngoài. Tôi đi lính đã lập tức thất tiết với tôi. Tôi nổi giận đùng đùng, về nhà đánh đuổi vợ tôi đi. Nàng tha thiết van xin:
– Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa từng bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.
Nhưng những lời nàng đối với tối lúc đó chỉ là gian dối, ngụy biện, tôi gạt phát đi và dùng những lời lẽ đay nghiến, trì triết để đuổi nàng đi. Giá lúc ấy tôi bình tĩnh hơn, nói rõ nguyên do cho nàng giải thích thì gia đình tôi đã không phải chịu cảnh li tán như ngày hôm nay.
Uất ức vì không được giãi bày, Vũ Nương đã tắm gội chay sạch và tìm đến bến sông Hoàng Giang để tự vẫn nhằm minh chứng cho tấm lòng trong sạch của mình. Lúc ấy tôi vẫn chưa biết rõ sự tình nhưng biết vợ tự vẫn cũng hết sức đau lòng, tôi ra bến sông để vớt xác nhằm chôn cất nàng chu đáo nhưng không tài nào tìm thấy, tôi và con đành trở về nhà.
Cuộc sống một mình gà trống nuôi con quả chẳng dễ dàng, đêm ấy tôi thắp đèn bỗng bé Đản reo lớn:
– Cha Đản lại đến kìa. Chính là người cha vẫn đến cùng mẹ đó.
Bấy giờ tôi mới biết mình đã nghi oan cho vợ. Trong những ngày xa tôi, vì thương nhớ và cũng muốn bù đắp cho con, để bé Đản được nhận tình yêu đủ đầy của cha và mẹ mà nàng đã trỏ bóng mình bảo cha Đản. Tôi lại ghen tuông mù quáng, nghe lời đứa trẻ ngây thơ, không tìm hiểu rõ nguồn cơn nên đã gây nên cái chết oan nghiệt cho nàng. Tôi ân hận lắm.
Thời gian cứ thế thấm thoát trôi qua. Bỗng một hôm Phan Lang người cùng làng tôi mang chiếc hoa mà ngày xưa vợ vẫn hay dùng đến và nói lời Vũ Nương nhắn gửi, bảo tôi lập đàn giải oan trên sông, đốt cây đăng chiếu xuống nước để Vũ Nương trở về. Tôi nghe xong bán tín bán nghi, nhưng nhìn chiếc hoa đúng là của vợ tôi thật. Tôi đành lập một đàn giải oan trên sông, Vũ Nương trở về thật, nhìn thấy tôi nàng đã nói:
– Thiếp cảm tạ tấm lòng chàng, ơn đức Linh Phi cứu mạng thiếp đã hứa sẽ ở đó cùng Linh Phi, sông chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng về nhân gian được nữa.
Tôi còn chưa kịp nói lời xin lỗi nàng, Vũ Nương đã biến mất…
Nàng trở về chẳng hề trách cứ, oán thán tôi một lời. Điều ấy càng làm tôi đau đớn, day dứt hơn. Chỉ một phút nóng nảy, chỉ vì tính ghen tuông tôi đã cướp đi tình yêu thương của mẹ mà bé Đản vốn được hưởng, và tôi đã đánh mất hạnh phúc của chính mình, mất người vợ thảo hiền, dịu dàng. Cả đời này tôi sẽ sống trong day dứt, đau khổ, và mãi mãi không quên nàng…
Đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện 6
Đã bao năm trôi qua, nhưng tôi vẫn không thể nào quên được những gì mình đã làm gây ra khiến vợ tôi khiến nàng chọn con đường bức tử. Một nỗi ân hận ghê gớm luôn vò xé nỗi lòng mỗi khi đêm về. Tôi muốn kể cho các bạn nghe câu chuyện sai lầm này, để ai đó đừng bước vào vết xe đổ của tôi.
Tôi sinh ra trong một gia đình khá giả ở Nam Xương. Lúc bấy giờ, trong cùng làng có một người con gái đẹp tuy nhà nghèo có nhưng đẹp cả người đẹp nết, nàng tên là Vũ Thị Thiết, mọi người xung quanh thường gọi là Vũ Nương. Mến vì dung hạnh đoan trang, nên tôi đã xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ. Chúng tôi sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc và cùng háo hức chờ đợi đứa con đầu lòng. Bất ngờ, chiến tranh xảy ra, triều đình bắt lính đi tòng quân. Do xưa nay chằng màng học hành nên tôi có tên trong danh sách. Không còn cách nào khác, tôi đành phải chia tay mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận.
Vào ngày tòng quân, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên:
– Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng, biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh, đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được.
Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Vợ tôi rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng:
– Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công; lời tâu công lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng Trường An , nhanh tay đập áo rét, ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn hàng thư tín, chỉ e không một tin về.
Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi tiệc tiễn vừa tàn, tôi dứt áo lên đường. Mọi vật xung quanh vẫn như cũ, nhưng lòng tôi đã bùi ngùi bởi cảnh sinh li và mối tình ngàn dặm quan san cách trở.
Ở chiến trường hơn một năm trời, may mắn được trở về đoàn tụ với gia đình. Nhưng sét đánh ngang tai, mẹ tôi vì quá nhớ thương con mà ốm đau biền biệt, cuối cùng cụ đã qua đời. Tôi đau xót biết bao, định bế con trai – bé Đản mới hơn một tuổi ra thăm mộ. Nhưng con từ lúc đẻ chưa gặp mặt, xa lạ nằng nặc không chịu đi. Dọc đường, bé Đản khóc, tôi dỗ: “Nín đi con, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi”. Bé Đản liền nói tôi không phải là cha nó, cha nó là người trước đây đêm nào cũng đến bên mẹ. Tôi choáng váng. Đất dưới chân tôi như sụp xuống.
Tôi cứ bần thần nghĩ ngợi, Vũ Nương là một người vợ ngoan hiền, đức hạnh, chẳng lẽ hơn một năm xa cách, nàng lại trở nên hư hỏng như vậy sao? Tôi bỗng thấy căm giận Vũ Nương. Ghen tuông mù quáng khiến tôi bùng lên, không có cách gì dập tắt được. Về đến nhà, tôi la mắng om sòm cho hả giận. Vũ Nương bàng hoàng sửng sốt. Nàng vừa khóc vừa thanh minh : “Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời hoa liễu, một mực nhớ thương và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hãy tin thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp…”.
Nhưng bao nhiêu lời nói chân thật cũng không làm dịu được mối nghi ngờ trong tôi. Hàng xóm thương nàng tần tạo, chăm sóc mẹ chồng con thơ chu đáo, ma chay cho mẹ làm tương tự thân sinh của chính mình nên ra sức bênh vực và biện bạch cho nàng. Nhưng tôi không nghe ai hết. Lúc đó tôi chẳng quan tâm lời ai nói, tôi mắng nhiếc không tiếc lời rồi đánh đuổi nàng đi. Cảm thấy đã không thể thuyết phục được tôi, Vũ Nương bất đắc dĩ nói trong đau đớn, xót xa, cay đắng rằng :
– Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
Tôi đã không biết, nàng lại đi tắm gội sạch sẽ, ra bến Hoàng Giang than khóc, thề nguyền và gieo mình xuống sông tự vẫn.
Về phần tôi, mối nghi ngờ không chỉ làm hại Vũ Nương mà còn làm khổ tôi, dằn vặt tôi không phút nào yên. Tuy giận Vũ Nương thất tiết nhưng khi nàng tự vẫn, tôi cảm thấy lòng đau nhói. Tôi cố vớt thây nàng để chôn nhưng tìm mãi không được. Một đêm, tôi ngồi buồn bã trước ngọn đèn khuya. Chợt đứa con trại bật thốt: “Cha Đản lại đến kia kìa!”, rồi chỉ tay vào bóng tôi in trên vách: “Đây này!”. Tôi ngỡ ngàng và hiểu ra tất cả. Thì ra, ngày thường lúc tôi vắng nhà, Vũ Nương hay trỏ bóng mình trên tường đùa con và báo đó là cha Đản. Tôi thấu hiểu nỗi oan động trời của vợ và trách mình sao quá nhẫn tâm, nhưng mọi chuyện trót đã qua rồi, không làm sao thay đổi được nữa…
Câu chuyện của tôi, những sai lầm của tôi là có thật. Tôi đã đánh mất hạnh phúc của chính mình. Kể ra câu chuyện đau lòng này, tôi chỉ muốn mọi người đừng xử sự nông nổi, cả giận mất khôn như tôi. Hãy tin yêu con người, thực lòng yêu thương người thân để gia đình không rơi vào những bi kịch đau đớn.
Đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện 7
Hoàng hôn đã ngả những ánh nắng yếu ớt lên vùng quê Nam Xương. Ta vác cày trở về căn nhà nhỏ bé của mình. Căn nhà này bấy lâu nay đã không vang tiếng cười. Bàn ghế lại bụi bặm bởi không có bàn tay ấm áp của người phụ nữ chăm sóc nên căn nhằ càng trở lên lạnh lẽo. Càng nhìn, ta càng cảm thấy lòng đau thắt lại khi nhớ đến người phụ nữ mà ta hằng yêu dấu lại bị chính ta phũ phàng đẩy đến bước phải gieo mình xuống sông Hoàng Giang mà chết. Tất cả chỉ vì cái tính đa nghi, gia trưởng, ít học của ta mà hạnh phúc gia đình mãi mãi tan vỡ không thể hàn gắn được. Ta đã làm cho căn nhà này trở nên hiu quạnh, làm cho đứa con trai duy nhất của ta phải khắc khoải mong chờ ngày mẹ nó trở về, hằng mong ước được sống trong tình mẹ, trong mái ấm gia đình hạnh phúc. Ta căm giận chính bản thân mình! Ta thù ghét dòng máu ghen tuông đang chảy trong lồng ngực mình! Ta đã làm gì, đã làm gì để giờ đây phải đau đớn nhường này, bẽ bàng nhường này…
“Vào hai năm trước, ta vốn là chàng trai phong lưu, tốt mã, nhà lại khá giả trong làng. Cùng thời gian ấy có bao nhiều cô gái đến tuổi cập kê. Nhưng trong mắt ta chỉ người con gái tên Vũ Nương là xinh đẹp nhất. Nàng nổi tiếng nết na, thuỳ mị, lại thêm tư dung tốt đẹp nên ai cũng quý mến nàng. Vì quá cảm mến dung hạnh tuyệt vời của nàng nên ta xin mẹ trăm lạng vàng đem đến xin cưới nàng về làm vợ. Nàng quả là người con gắi dịu dàng và hiểu phép tắc. Biết tính ta đa nghi nên nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để cho vợ chồng phải thất hoà. Bởi vậy, ta với nàng, dù tính tình trái ngược nhau nhưng vợ chồng luôn sống trong cảnh êm đềm hạnh phúc. Nàng luôn dịu dàng với ta, chăm lo cho ta và mẹ chu đáo. Dù là mẹ ta nhưng Vũ Nương luôn coi đó là mẹ ruột và hết lòng hiếu thảo, phụng dưỡng bà…
Cuộc sống bình yên tưởng như có thể trôi qua mãi mãi cho tới khi làng ta nhận được tin dữ: giặc đã xâm lược bờ cõi. Vua đang cho lính đi khắp các làng để tuyển trai tráng đi đánh giặc cứu nước. Ta cũng nằm trong danh sách phải đi lính năm đó. Ngày chia tay, ta không nỡ lòng nào để người vợ nết na một mình vừa mang nặng đứa con của ta, vừa chăm sóc mẹ già cơ chứ! Nàng rót chén rượu đầu tiên mà rằng:
– Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ; chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng…
Ôi, người vợ nết na của ta! Ta cảm động biết mấy khi nàng chẳng màng vinh hoa phú quý, chỉ mong ta có thể bình yên trở về. Nàng vô cùng lo lắng trước mối an nguy mà ta sắp phải chịu đựng và nàng đã khắc khoải nhớ thương ta ngay rồi. Vũ Nương quả là người vợ luôn hết mực yêu thương ta! Ta đi chuyên này, chẳng biết bao giờ mới có thể quay lại nhưng khi nghĩ tới Vũ Nương và mẹ, ta thấy yên lòng đi làm nhiệm vụ nơi xa, luôn mong ngóng ngày trở về đến nhanh.
Nơi chiến trường chỉ đầy chông gai và khắc nghiệt. Bởi vậy, không lúc nào là ta không nghĩ đến nàng. Thiếu vắng nàng, cuộc đời ta thật cô đơn, buồn tẻ. Những mùa đầu khi mới xa nhà, nhìn cảnh vật xung quanh ta, dường như chỉ là một màu xanh đơn điệu. Chiến trường thì chỉ đầy màu sương khói. Nhưng tất cả chỉ làm lòng ta đau nhói và thầm nghĩ rằng mình phải cố gắng để bảo vệ đất nước, bảo vệ những ngôi làng, những cánh đồng,… và đặc biệt là bảo vệ cả người mẹ thân yêu, cả nàng và cả đứa con hình hài máu mủ của ta. Ta cứ thầm nghĩ thế mấy mùa thu, để rồi cũng đến ngày đất nước bình yên, ngày ta được trở về với nàng. Ôi, thật hạnh phúc làm sao! Cứ nghĩ tới là ta lại phơi phới hưng phấn. Bước về làng trong nỗi niềm hân hoan bởi ta sắp được gặp lại mẹ và nàng. Ta sắp được ôm nàng vào lòng, ta sắp được người vợ nết na hết mực yêu thương và chăm sóc này sưởi ấm tâm hồn ta khỏi những ngày lạnh giá trên chiến trường. Gia đình của chúng ta sắp được đoàn tụ và sống hạnh phúc mãi mãi…
Nhưng vừa về tới nơi, ta đã nhận được tin dữ rằng mẹ quá lo lắng và nhớ thương ta mà ốm rồi mất. Ta không khỏi đau lòng. Chiến tranh phi nghĩa đã cướp đi sinh mạng của bao nhiêu người, bao nhiêu đồng đội của ta rồi bây giờ lại cả mẹ ta. Ta thật có lỗi khi không có thể ở nhà để phụng dưỡng, chăm sóc người khi tuổi già sức yếu. Cũng may ta còn có nàng bên cạnh. Biết rằng nàng đã cố gắng chăm sóc mẹ cẩn thận và khi bà mất thì nàng lo ma chay chu đáo nên ta cũng cảm thấy yên lòng phần nào. Nhưng bỗng có một sự việc xảy ra làm ta sụp đổ hoàn toàn. Ta bế bé Đản đi thăm mộ bà nhưng đứa trẻ lại không chịu rồi quấy khóc và không nhận ta là cha. Con ta bảo trước đây thường có người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, me Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả. Lời nói của bé Đản như sét đánh ngang tai ta. Ta như chết đứng khi nghe tin ấy. Con trẻ thì không thể nói sai bao giờ! Tại sao người đàn ông kia chỉ hằng đêm mới tới? Tại sao hắn chỉ theo vợ ta mà không quan tấm đến con trai ta? Sau chuyện buồn mẹ mất, chuyện này chẳng khác gì thêm dầu vào lửa. Ta nổi giận đùng đùng, không còn đủ thời gian để xem xét, nghĩ ngợi gì nữa. Ta đã chờ mong biết bao nhiêu để được về bên nàng. Ta nhớ thương nàng biết chừng nào trong suốt cuộc chiến tranh dai dẳng. Ta ấp ủ-mong ước được xây dựng hạnh phúc cùng nàng. Vậy mà, sự thật là nàng tặng ta, bù đắp cho ta bằng thói trăng hoa mất nết thế này đây. Đất dưới chân ta như đang chuyển động. Ta lập tức trở về tìm Vũ Nương để hỏi cho ra nhẽ. Nàng phân trần với ta về tình nghĩa vợ chồng, về lòng chung thuỷ của nàng, về tình nghĩa vợ chồng. Nàng đã cầu xin ta nghĩ lại để hạnh phúc gia đình khỏi tan vỡ. Nhưng trong đầu ta lúc bấy giờ, hai chữ “chung thuỷ” của nàng thật vô nghĩa. Chính nàng là người đã phá tan đi hạnh phúc gia đình vậy mà nàng vẫn nói nàng chung thuỷ ư? Trái tim ta khi ấy đã hoá đá mất rồi. Bây giờ nghĩ lại, ta thấy nàng thật đáng thương! Ta đã quá nhẫn tâm khi đánh đập nàng, không nghe nàng nói. Khi ấy, trong tâm ta, ta cảm thấy bàng hoàng, thất vọng đinh ninh là vợ hư nên mới như vậy. Vì quá uất ức, nàng đã chạy ra sông kêu lên YỚi trời đất, với các vị thần linh. Cảm xúc ấy trong ta thật hỗn độn: nửa muốn chạy theo nàng, nửa lại không. Không bởi vì “cái tôi” của ta quá lớn, hơn nữa, nàng lại là người có lỗi chứ không phải ta. Nhưng nửa ta muốn đuổi theo bởi nàng là người ta yêu thương nhất, người ta luôn tin tưởng nên ta không muốn đánh mất nàng. Cuối cùng, “cái tôi”, sự ích kỉ đã chiến thắng. Cái chết của nàng đã làm tim ta trống rỗng. Ta chợt cảm thấy cô đơn, sầu thảm và lạnh lẽo trong tâm hồn. Cho tới đêm hôm ấy, ta như cảm giác trời long đất lở, như rơi xuống vực sâu thẳm nhất của đời người. Khi bé Đản nói rằng cha Đản lại đến và nó chỉ bóng ta trên vách, bấy giờ, ta mới vỡ lẽ ra tất cả. Ta gục xuống, người run lên bần bật! Chính tay ta đã giết chết người phụ nữ mà ta hằng yêu thương, mong nhớ. Ta cảm thấy ăn năn, hối hận vô cùng. Giá mà ta đừng như thế. Giá mà ta bình tĩnh chứ không bồng bột thì ta có thể cứu được hạnh phúc gia đình. Ta thật đáng chết! Ta thật đáng chết!”.
Ta bừng tỉnh sau những dòng suy nghĩ về quá khứ. Tới giờ, ta vẫn chưa thể nguôi ngoai được nỗi căm ghét bản thân mình. Ta có lỗi với nàng, có lỗi với con bởi vậy đến bây giờ, ta cố gắng làm tất cả để đền bù cho bé Đản dù ta biết khi bé Đản hiểu hết sự việc thì vết thương trong lòng nó sẽ là quá lớn không thể bù đắp được. Nhưng ta đã an ủi lòng mình để sống tiếp và sẽ để bé Đản lớn lên được hạnh phúc như cả ta và nàng hằng mong ước…
Đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện 8
Tôi tên là Trương Sinh. Cha tôi mất sớm nên tôi sống với mẹ. Chuyện xảy ra khi tôi bắt đầu đến tuổi cưới vợ, tôi có để ý một cô gái xinh đẹp, thùy mị và nết na tên là Vũ Thị Thiết. Thấy nàng vừa xinh đẹp, vừa hiền lành, tôi đã xin mẹ tôi một trăm lạng để cưới nàng về. Tôi đã không trân trọng nàng từ khi tôi dùng tiền để hỏi cưới cô ấy mà không hề quan tâm xem cô ấy có yêu mình hay không. Nhưng vợ tôi quả là một người phụ nữ vẹn toàn. Cưới nàng về, tôi và mẹ được chăm sóc chu đáo, cơm nước, nhà cửa lúc nào cũng tinh tươm. Ấy vậy mà tôi chẳng những không biết hạnh phúc với hiện tại mà còn đi ghen tuông với vợ những chuyện vụn vặt cỏn con, tôi không muốn một người đàn ông nào bén mảng đến bên vợ mình. Thế rồi cũng vài năm trôi qua, Vũ nương và tôi đón tin vui đầu tiên. Đó là gia đình sắp có thêm một thành viên mới, tôi sung sướng lắm! Nhưng ai ngờ đâu, chiến tranh lại đột ngột ập đến, tôi bắt buộc phải đi lính, để lại mẹ và vợ ở nhà. Trước lúc chia tay, vợ tôi có nói với tôi rằng: “Chàng ra đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong chàng được đeo ân phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ.” Nghe được những lời từ vợ, tôi cảm thấy an lòng.
Ở nhà, vợ tôi vẫn là một người vợ đảm đang, tháo vát và chu toàn. Chẳng lâu sau, con tôi ra đời, vợ tôi đặt tên cho con là Đản. Cả nhà ba mẹ con, bà cháu nương tựa lẫn nhau mà sống. Tôi ở chiến trường vẫn không nguôi nhớ về quê nhà, nhớ về mẹ, về vợ và cả về đứa con tôi chưa từng được một lần gặp mặt nữa. Nhưng rồi chuyện gì đến cũng sẽ đến, mẹ tôi già cả nên bị lâm bệnh nặng. Trước lúc bà qua đời, bà đã có lời trăn chối với vợ tôi:
– Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải là không muốn đợi chồng con trở về. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết, chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi, chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được, sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn. Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.
Cả đời mẹ tôi tần tảo nuôi dạy tôi nên người, đến lúc chết dù không được nhìn mặt con trai nhưng lại có một nàng dâu coi bà chẳng khác nào cha mẹ đẻ, bà cũng rất yên lòng. Nếu tôi có thể hiểu được vợ tôi như bà thì tốt biết mấy. Có thể mọi chuyện sẽ chẳng ra nông nỗi này! Vợ tôi lo tang ma cho mẹ thay tôi vô cùng chu đáo. Ai nấy đều cảm động trước tấm lòng của nàng.
Rồi thời gian cũng trôi qua đi, chiến tranh tạm chấm dứt, tôi háo hức trở về với vợ con ở quê nhà. Hay tin mẹ đã mất, tôi đau buồn khôn xiết, liền đi ra mộ của mẹ ngay. Nhưng vì không biết đường, tôi để con trai tôi chỉ đường để cùng đi ra đó. Đến nơi, chẳng hiểu sao thằng bé cứ khóc, tôi mới dỗ dành con:
– Nín đi con, đừng khóc nữa! Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi!
Vừa nói xong, nó đã hỏi lại tôi:
– Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.
Tôi ngạc nhiên lắm! Vợ tôi có người nào khác ngoài tôi ư? Nàng ta lại dám không chung thủy với chồng của mình ư? Tôi gặng hỏi con và biết được rằng có một người đàn ông đêm nào cũng đến, vợ tôi ngồi cũng ngồi, vợ tôi đứng cũng đứng, nhưng chưa bao giờ người đàn ông đó bế con tôi cả. Máu ghen tuông vốn có của tôi trỗi dậy, tôi liền về nhà, quát tháo ầm ĩ. Vợ tôi khóc, bảo rằng:
– Thiếp vốn con nhà nghèo khó, may được nương tựa nhà giàu. Vợ chồng sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguôi lòng, ngõ liễu đường hoa, chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết như lời chàng nói. Dám xin chàng cho thiếp được bày tỏ, để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng nghi oan cho thiếp!
Nhưng lúc đó tôi đâu có mảy may suy nghĩ đến đúng sai, nàng lại nói tiếp:
– Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân con én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa?
Trước những lời minh oan đau đáu, khẩn thiết ấy, tôi lại nhẫn tâm đuổi nàng đi mà không phân rõ đúng sai, tìm hiểu ngọn ngành. Tôi trách mình khi ấy quá đa nghi, vội vàng, để rồi vợ tôi phải tìm đến cái chết. Tôi không bao giờ quên những lời mà nàng nói trước khi trẫm mình xuống sông:
– Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám! Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, xin vào nước làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
Vợ tôi đã phải chọn cách đau đớn nhất là tìm đến cái chết. Chỉ có cái chết mới có thể chứng minh cho sự trong sạch của nàng. Sau này, khi tôi bế con, thấy cái bóng ở trên tường, con tôi mới chỉ và bảo: “Cha Đản đến rồi kìa”. Hóa ra, người tình của vợ tôi là cái bóng, vợ tôi muốn dỗ dành con, bớt đi sự cô đơn nên mới bảo đấy là cha đứa bé… Mà tôi lại không hề biết, lại đi trách mắng, lăng mạ, xỉ nhục và đuổi vợ đi, khiến cho vợ tôi phải chết, chết trong sự oan ức. Tôi đau lòng và dằn vặt bản thân mỗi khi nhớ lại chuyện này. Mãi sau, vợ tôi được Linh Phi – người cùng làng với cô ấy giải oan cho. Tôi thấy bóng hình vợ hiện về và bảo: “Thiếp không thể trở về bên chàng và con được nữa…” Đó là câu nói khiến tôi ám ảnh và đau lòng nhất.
Giờ đây, đã hai mươi năm trôi qua, tôi vẫn không thể nào quên được câu chuyện đó. Bi kịch mà chính tôi tạo ra khiến tôi muốn xám hối cả đời, sống đơn thân nuôi con trai khôn lớn. Tôi hiểu ra rằng, khi yêu một người thì cần phải có sự tin tưởng, cần phải đặt niềm tin vào người đó chứ đừng ghen tuông mù quáng. Nếu có chuyện gì xảy ra thì cần phải tìm hiểu thật kĩ trước khi làm gì bởi khi ta nóng giận có thể hành xử mất kiểm soát, dẫn đến hậu quả khôn lường.
Các bạn, nếu ai đang trong một mối quan hệ tình yêu thì nên biết tôn trọng và thấu hiểu đối phương. Đừng ai như tôi, để ghen tuông làm mờ đôi mắt. Cuộc đời tôi đã không thể cứu vãn và sửa chữa được sai lầm, còn các bạn thì vẫn còn rất nhiều cơ hội. Hãy biết đối xử với người khác thật tốt và thận trọng trong từng hành động để không phải hối hận về bất cứ điều gì, các bạn nhé!
Đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện 9
“Cha ơi, mẹ con đâu?”. Câu hỏi của đứa con thơ dại lại vang lên, và một lần nữa làm con tim tôi đau nhói. “Mẹ đang cùng bà nội sống ở một nơi thật xa, con ạ!” … “Thế sao mẹ Đản không về nhà chơi với Đản?” … “Mẹ còn phải chăm sóc bà mà con. Mẹ Đản về chơi với Đản thì ai sẽ trông nom bà, đúng không nào?”. Đứa bé suy nghĩ một lúc rồi “dạ” một tiếng rõ to và trở lại nô đùa cùng chúng bạn sau khi được tôi giải đáp. Còn tôi lại đứng lặng người, chỉ mong con tha lỗi, vì tôi chỉ có thể trả lời bé như vậy. Nó còn quá nhỏ, quá bé bỏng để có thể hiểu mọi việc. Tôi đã quyết định đến một ngày nào đó, khi bé đã khôn lớn, tôi sẽ kể cho nó nghe tất cả những gì mà nó đang thắc mắc – câu chuyện về người mẹ thùy mị, nết na. Nghĩ đến đây, khóe mắt tôi đã ngấn lệ, và bao nhiêu kí ức lại ùa về…
Một buổi sáng trong lành, từng chú chim nhảy nhót trên cành và líu lo cất tiếng ca, từng cây lá khẽ đung đưa theo lời ru của chị Gió, mọi vật xung quanh đều tươi tắn, vui mừng như gửi ngàn lời chúc phúc cho cuộc hôn nhân của tôi – Trương Sinh – và nàng – Vũ Nương. Tôi cảm thấy thật hạnh phúc và vui sướng biết bao khi lấy được nàng làm vợ. Nàng tên thật là Vũ Thị Thiết, cùng sống ở huyện Nam Xương quê tôi. Từ lâu, tôi đã mến mộ tư dung tốt đẹp của nàng. Vẻ đẹp của cả tâm hồn và vóc dáng ấy đã khiến không biết bao nhiêu chàng trai mơ ước, và trong đó có tôi. Tôi quyết định bàn việc với bố mẹ và mang trăm lạng vàng đến hỏi cưới nàng. Cha mẹ hai bên đều ưng thuận, tôi quyết mang đến cho nàng một cuộc sống êm ấm. Thế nhưng, có lẽ nàng đã không nhận được những gì mà nàng tưởng tượng và xứng đáng được nhận, bởi tôi là một kẻ vô học, bất tài vô dụng, và theo như tôi tự nhận thấy thì tôi rất hay ghen. Biết vậy nên cô vợ khôn khéo của tôi luôn luôn giữ gìn đúng khuôn phép, làm tôi cũng rất yên lòng. Thế mà ông trời lại không cho chúng tôi được hạnh phúc. Thành thân với nàng không bao lâu thì tôi lại nhận lệnh phải đi lính, giúp triều đình chống giặc. Tôi không nỡ nào bỏ lại mẹ già ốm yếu và người vợ mà tôi hết mực yêu thương. Nhưng số trời nào có thể tránh, tôi đành ngậm ngùi tòng quân giúp nước trong nỗi buồn chia li vô hạn, bởi tôi biết mình chẳng học hành gì nên không có cách chối từ.
Ba năm dài dằng dặc ấy rồi cũng trôi qua, tôi được trở về nhà sau khi giặc giã đã dẹp yên. Ba năm qua, tôi luôn sống trong nỗi nhớ thương và lo lắng về mẹ và vợ. Tôi quyết nghe theo lời dặn của hai người, không ham danh lợi để quay trở về được bình an. Không còn lâu nữa, tôi sẽ được gặp đứa con trai đầu lòng, được gặp lại mẹ và vợ – những người tôi hằng thương nhớ. Thế nhưng, niềm vui sum họp vừa được nhen nhóm thì tôi đã phải nhận một tin dữ: mẹ tôi đã mất! Ông trời ơi, sao ông lại bất công thế này? Tôi chưa từng làm điều gì xấu, sao ông cứ phải gieo rắc cho tôi những nỗi đắng cay và đau đớn đến vậy? Được nhìn lại khuôn mặt thân yêu của vợ và hình ảnh đứa con bé bỏng, thế nhưng sao lòng tôi không thể nào vui lên được, cứ nặng trĩu một nỗi buồn mất mát. Tôi dắt bé Đản – con trai tôi – cùng đi thăm mộ người mẹ hiền mà tôi hết mực tôn kính. Đứng trước ngôi mộ của mẹ, tôi không kìm nổi nước mắt, cũng bởi tôi quá nhu nhược và chưa làm được gì để báo hiếu cho mẹ. Sao mẹ lại ra đi trong khi con chưa thể đền đáp ơn nghĩa sinh thành và dưỡng dục của mẹ? Tôi hối hận và thấy mình sao quá hờ hững lúc trước, không chăm chỉ học tập, nuôi mộng đỗ đạt, trả hiếu cho cha mẹ, để rồi giờ đây tất cả đã quá muộn màng. Tôi ôm lấy bé Đản và cất tiếng bày tỏ nỗi đau của mình cho con nghe. Thế nhưng, than ôi, tất cả như được sắp đặt để đánh ngã bản thân tôi, con tôi hỏi tôi cũng là cha của nó ư? Chẳng lẽ người vợ hiền của tôi đã không chung thủy? Không thể thế được, tình yêu thương mà tôi dành cho nàng là rất chân thật, và nàng cũng hiểu được điều đó cơ mà! Tôi gặng hỏi thêm thì bé Đản kể rằng đêm nào cũng có một người đến bên mẹ nó. Đã vậy, mẹ nó còn bảo đó chính là cha của Đản. Quá nóng vội và để nỗi ghen tuông điều khiển mọi tâm trí lẫn hành động, tôi đùng đùng trở về nhà, không nói không rằng, mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Giờ đây, khi đã hiểu rõ nguồn cơn và nghĩ lại, tôi thấy mình hồ đồ quá! Lúc đó tôi đã bỏ ngoài tai mọi lời phân trần, giải thích của nàng và kể cả những lời khuyên ngăn của bà con làng xóm. Chỉ vì một lời nói ngây dại của con và bản tính bồng bột của tôi mà nàng đã phải chịu nỗi oan nhục kêu trời không thấu. Nàng đã phải tự trầm mình xuống sông Hoàng Giang để bảo vệ cho tiết hạnh của mình. Tôi chỉ cảm thấy một chút tiếc thương, và vẫn cho rằng mình đúng. Cho đến một đêm, tôi cùng bé Đản – lúc này đã ba tuổi rưỡi – ngồi trong căn phòng trống. Dưới ánh đèn dầu mập mờ, bỗng nhiên bé Đản chỉ tay vào bóng của tôi trên 1 vách và reo lên: “Cha Đản lại đến kia kìa!”. Không thể nào, cha của nó lại chỉ là một cái bóng vô tri vô giác thôi ư? Vậy là tôi đã trách nhầm Vũ Nương? Trời ơi, đến giờ tôi mới rõ được nỗi oan của vợ mình. Hằng đêm, nàng đã mượn bóng mình trên vách để giải đáp cho con về cha nó – cũng như tôi đang dối nó bây giờ. Tôi quyết định đi hỏi cặn kẽ từng người thân, hàng xóm và cuối cùng lại phải ân hận đến tận xương tủy khi biết thêm nhiều điều về nàng trong thời gian tôi đi lính… Vợ tôi ngày ngày chờ mong tôi quay về trong nỗi buồn tủi mà khó ai thấu hiểu được. Nàng luôn giữ lòng chung thủy, một mình nuôi dạy con, chăm sóc mẹ tôi và lo toan mọi việc trong gia đình… Nhưng giờ đây, dù tôi có biết chuyện và hối hận thì nàng cũng không thể quay trở về được nữa rồi!
Một hôm, trong lúc tôi đang dạy con học bài thì bỗng có một người đàn ông đến nhà và xin gặp. Anh ta tên là Phan Lang, người cùng làng với tôi. Theo lời anh ấy kể, anh được Linh Phi – vợ vua Nam Hải – cứu giúp khi bị rơi xuống sông Hoàng Giang. Anh ta gặp vợ tôi ở đây và nhận gửi lời nhắn của nàng cho tôi. Lúc đầu, tôi cũng không tin Phan Lang, bởi ở đời làm gì có chuyện lạ kì đến vậy. Nhưng sau khi anh đưa tôi xem một chiếc hoa vàng lấp lánh, tôi nhận ra ngay đây là kỉ vật mà tôi đã mua tặng cho nàng trước khi tôi tòng quân đánh giặc. Tôi nghe theo lời anh, lập đàn giải oan cho vợ bên sông Hoàng Giang, cúng tế ba ngày ba đêm. Quả thật, đến ngày thứ ba thì Vũ Nương đã trở về. Nàng ẩn hiện giữa dòng sông, cờ hoa võng lọng rực rỡ. Nàng trao gửi tấm lòng mình cho tôi và dặn tôi sống tốt. Vì phải chịu ơn Đức Linh Phi nên nàng không thể về được nữa. Tôi ngậm ngùi nhận lời nàng. Nàng mỉm cười với tôi và biến mất, để lại tôi bao nỗi tiếc thương và day dứt. Có lẽ tôi sẽ không thể nào tha thứ cho lỗi lầm mà mình đã gây ra!!!
Giờ đây, khi nhớ lại những kí ức nghiệt ngã ấy, tôi lại càng vững chắc quyết tâm sống tốt hơn, nuôi dạy bé Đản nên người. Con ơi, hãy thay cha thực hiện một ước mong cháy bỏng – cải đổi xã hội phong kiến lạc hậu này, giúp cho đất nước và cuộc sống tốt đẹp hơn, con nhé!
Đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện 10
Khi bóng hình Vũ Nương dần dần mờ khuất trong sương khói mịt mờ, hàng xóm dần tản về hết. Bến sông lại vắng lặng như tờ. Tôi vẫn ngồi đó giờ lâu. Bây giờ, mong muốn nàng trở về cũng đâu thể được nữa. Tất cả cũng chỉ tại tôi quá ích kỉ, hành động hồ đồ, mù quáng, thiếu suy nghĩ mà gây ra nông nỗi này.
Tôi sinh ra trong một gia đình hào phú. Cha tôi mất sớm, mẹ tôi tuổi già sức yếu nhưng gia sản vẫn còn sung túc. Tôi ỷ lại gia thế, từ nhỏ đã không chăm lo học hành gì. Đến tuổi trưởng thành, mẹ tôi muốn có cháu bế, lại lo có người nối dõi tông đường. Thương mẹ, tôi cũng lo tìm người hợp ý, xây dựng gia đình cho êm ấm cửa nhà. Nghe làng bên có một người con gái họ Vũ, người xinh đẹp, lại nết na nhu mì, lễ nghĩa hết mực, tôi lần sang hỏi thăm. Gặp người ưng ý, tôi liền về xin mẹ trăm đồng bạc sang hỏi cưới nàng về làm vợ. Mẹ tôi từ ngày có con dâu cũng vui lắm. Bà trở nên tươi trẻ hẳn lên,suốt ngày cùng con chăm lo trong ngoài, hết sức viên mãn. Vợ tôi biết tính tôi gia trưởng nên cũng hết sức giữu gìn khuôn phép, hiếu thuận với mẹ, chưa lúc nào vợ chồng trở nên thất hòa. Có nàng chăm lo gia đình, tôi hết sức yên tâm.
Hạnh phúc chưa được bao lâu, năm ấy, giặc Chiêm Thành xâm lấn biên cương. Tôi tuy là con một nhưng cũng có tên trong danh sách phải tòng quân. Mẹ tôi vì chuyện ấy mà hết sức lo lắng. Bà lo nhỡ có chuyện gì nơi biên ải xa xôi. Lại thêm chưa con chưa cháu, việc gia tiên ai sẽ đỡ đàn. Trước lúc tôi lên đường, bà tha thiết căn dặn không ham gì bã công danh, chỉ cần vẹn toàn trở về là bà an lòng. Vợ tôi đang có mang cũng sắp đến ngày sinh nở. Nàng buồn rầu rót chén rượu tiễn đưa. Chiến trận vô tình, đường tên mũi đạn biết đâu mà lần. Nàng cũng mong tôi được bình an, chứ chẳng mong gì phong ấn công hầu.
Hết lời, tiếng trống gọi quân thúc giục vang dội. Tôi gạt nước mắt lên đường. Biên cương xa xôi, vó ngựa hồng hoang rong ruổi. Kẻ thù hiểm nguy, nỗi nhớ nhà đằng đẵng. lại lo mẹ già tuổi mòn sức yếu, biết gắng gượng được bao lâu. Càng nghĩ, lòng tôi càng đau thương. Vợ tôi sau đó mươi ngày cũng hạ sinh con và đặt ten là Đản. Có cháu nội, chắc mẹ tôi cũng vơi bớt buồn đau.
Hai năm sau, giặc dữ quy hàng, tôi hồ hởi trở về. Gặp vợ con tôi vô cùng hạnh phúc như thể cuộc đời đã được tái sinh lần thứ hai. Nhưng, khi hay tin mẹ tôi vì ngày đêm mong nhớ con hao kiệt thân thể mà sớm qua đời, tôi vô cùng đau lòng.
Sáng hôm sau, tôi bế con ra đồng viếng một mẹ. Trong lúc cáu gắt, con tôi nói rằng có một người dàn ông hay tìm đến nhà mỗi đêm và rất thân thiết với vợ tôi. Lòng ghen mù quáng, thói ích kỉ, tính hồ đồ đã khiến tôi không kịp suy nghĩ đã buông lời sỉ nhục, đánh đạp vợ tôi tàn tệ cho hả giận. Không những thế, tôi còn đuổi nàng đi vì không muôn gia phong bị làm ô nhục. Nàng hết lời phân giải, hàng xóm cũng đến can ngăn, nhắc lại ân xưa của Vũ nương dối với mẹ tôi khi tôi còn ở nơi chiến trận, nhưng tôi nhất quyết không nghe.
Vũ Nương vợ tôi vì qua tủi nhục, đau đớn và tuyệt vọng, trong một đêm vắng lặng, nàng đã tìm đến cái chết trên dòng sông Hoàng Giang để chứng minh mình trong sạch. Hàng xóm khóc thương thảm thiết, nhiều người tìm xác nàng để an táng nhưng chẳng thấy. Tôi vì cả giận nên cũng chẳng động lòng.
Vũ Nương ra đi, căn nhà vắng lặng, đìu hiu. Lúc này tôi mới thấy hạnh phúc thật mong manh. Bé Đản một đem không có mẹ dỗ dành nên khóc nhiều, tôi dỗ thế nào cũng không chịu nín. Bỗng con tôi ngừng khóc, chỉ len bức vách và nói rằng cha Đản lại đến kìa. Tôi nhìn thay hướng tay con chỉ, giật mình thẳng thốt: “Trời ơi, lẽ nào….”
Thì ra, người đàn ông bí ẩn mà con tôi nói đến lúc trước chính là cái bóng ở trên tường. Lúc trước, mỗi khi con quấy khóc. Vũ nương thường hay chỉ lên cái bóng của mình ở trên bức vách và bảo rằng đó là cha cho con đỡ sợ mà không khóc nữa. Con trẻ ngây thơ, cứ tưởng là thật. Đến lúc ấy, tôi mới biết Vũ Nương bị hàm oan. Chính tôi đã gây ra cái chết oan nghiệt cho nàng, tôi hối hận lắm.
Thời gian lặng lẽ trôi qua, bỗng một hôm Phan Lang tìm đến nhà tôi khiến tôi sửng sốt. Số là Phan Lang đã mất tích trong một lần ra khơi, ai cũng cho rằng Phan đã chết, giờ xuất hiện trước mặt tôi, lẽ nào đây là hình ma bóng quỷ. nhưng không phải, đó là Phan Lang còn sống. Phan Lang kể rằng, lúc trước ông đánh bắt được một con rùa xanh. Đêm ấy, ông nằm mộng thấy một người đến cầu xin ông thả con rùa xanh ấy đi. Hôm sau, Phan Lang đã thẻ nó đi. Thì ra, con rùa xnah ấy chính là Linh Phi, vợ vua Thủy Tề, chúa chủ động rùa nơi cung nước. Trong trận bão khủng khiếp, Phan Lang tử nạn, xác trôi vào động rùa và được Linh Phi cứu sống. Trong bữa tiệc tiễn đưa, Phan Lang có gặp vợ tôi. Nàng kể cho Phan Lang nghe rằng nàng cũng được Linh Phi cứu và cho tá túc ở nơi ấy. Nàng còn nhờ Phan Lang về bảo lại với tôi rằng hãy lập đàn giải oan để linh hồn nàng được giải thoát.
Tôi nghe Phan Lang kể, lòng vẫn còn hoài nghi. Xưa nay chuyện ma quỷ đâu có lạ gì. Phan Lang chẳng lừa tôi để làm gì nhưng biết đâu lợi dụng việc này để khiến tôi đau khổ, dằn vặt. Nhưng khi Phan Lang đưa tôi cây trâm cài, vật đính ước khi xưa tôi tặng cho Vũ nương thì tôi mới tin. Nước mắt tôi chảy xuống. Thì ra, khi đã là hồn ma, Vũ Nương vẫn còn tha thiết vói gia đình, mong được minh chứng oan tình. Người phụ nữ hiền đức đến thế mà tôi đã nỡ phụ lòng nàng.
Ngay hôm sau, tôi mời thầy lập đàn tế lễ suốt ba ngày ba đêm trên bến sông, cầu mong linh hồn của Vũ nương được thanh thản. Đến buổi chiều hôm ngày thứ ba, mặt sông bỗng nhiên phủ khói mịt mờ. Từ trong đám sương dày, xuất hiện những chiếc thuyền mờ mờ ảo ảo. Tôi nhận ra Vũ Nương đang đứng trên chiếc thuyền hoa.Thấy tôi, từ xa nàng nói vọng vào lời từ biệt, mong tôi chăm con thật tốt và đừng tiếc thương cho nàng nữa. Lời nói vang vọng rồi nhỏ dần, nàng cùng chiếc thuyền hoa từ từ biến mất. Bến sông trở lại vắng lặng như tờ. Những người có mặt hôm ấy xót thương vô cùng, tiếng khóc thảm thương nhuốm cả không gian mênh mông.
Đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện 11
Mỗi lần bé Đản nhắc đến mẹ nó là lòng tôi lại dâng lên một niềm ân hận, xót xa. Tôi không thể nào quên được những việc làm mà mình gây ra khiến vợ tôi – Vũ Nương chọn con đường chết. Chỉ vì nóng giận, ghen tuông, không tin tưởng vợ, tôi đã gây nên bi kịch cho người vợ thân yêu của mình.
Tôi sinh ra trong nhà hào phú ở Nam Xương nhưng tuổi trẻ không chăm lo học tập. Cha tôi mất sớm, chỉ còn mẹ già. Lúc bấy giờ, có một người con gái trong làng đẹp người lẫn đẹp nết tên Vũ Thị Thiết, mọi người xung quanh thường gọi là Vũ Nương. Nên tôi đã xin mẹ cưới cô ấy về làm vợ. Tôi hết lòng yêu thương vợ mình, nhưng tính tôi lại hay ghen, sợ vợ mình xinh đẹp, thùy mị như vậy sẽ nhiều người theo đuổi nên tôi vẫn hết sức phòng ngừa.
Biết tôi tính như thế nên Vũ Nương cũng hết sức giữ gìn, bởi vậy gia đình tôi luôn được êm đềm, yên ấm. Bất ngờ chiến tranh bùng nổ, loạn lạc xảy ra khắp chốn. Nhận được lệnh sung vào lính, tôi đành chia tay mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận. Tuy là con nhà hào phú nhưng không có học, nên tên phải ghi trong sổ lính đi vào loại đầu. Ngày tiễn tôi lên đường hành quân mẹ tôi vô cùng lo lắng nên bà đã dặn dò cẩn trọng, không tham vinh hoa, công trạng cốt giữ gìn thân thể để trở về. Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Vợ tôi rót chén rượu tiễn đưa. Nước mắt nàng rưng rưng, nghẹn ngào nói lời từ biệt. Nàng nói xong thì mọi người đều ứa hai hàng lệ. Thế mới biết giây phút chia tay buồn da diết đến mức nào.
Nơi chiến trường, không lúc nào tôi thôi mong nhớ. Một phàn lo cho mẹ già tuổi đã xế chieuf, một phần lo cho vợ trẻ không người nương tựa. Nỗi lòng đau đáu không biết tỏ cùng ai, chỉ mong ngày tháng nhanh đi, giặc dữ mau hàng để tôi trở về.
Hai năm chinh chiến, cuối cùng giặc dữ cũng chịu trói, biên cương cũng sạch bóng quân thù, tôi vội vã trở về nhà và gặp lại hai mẹ con Vũ Nương lòng tôi vô cùng hạnh phúc. Khi nhìn thấy đứa cin nhỏ tôi đã quên đi những ngày tháng gian nan ở chiến trường. Nhưng vui buồn lẫn lộn được tin mẹ mất tôi đau khổ vô cùng vì chẳng thể làm tròn bổn phận người con chăm sóc mẹ già và ngày bà ra đi, tôi đã không được gặp mặt bà lần cuối.
Sáng hôm sau, tôi dắt bé Đản ra thăm mồ mẹ. Tôi lặng lẽ nhìn nấm mồ khô mà thầm trách mình chưa làm tròn bổn phận. Có lẽ mẹ già đã mong nhớ biết bao. Càng nghĩ càng thấy đau lòng. Con tôi vì đợi lâu quá nên quấy khóc. Tôi khuyên con nán lại tí nữa nhưng nó cứ không chịu. Bực dọc, tôi dọa đánh, nó liền nói những lời khiến tôi sủng sốt rằng nó có một người cha thường đến nhà vào mỗi đêm. Người ấy chẳng bao giờ nói gì hay bế nó. Mẹ nó đi đâu, người đó theo đó.
Nghe đứa con nói, cơn ghen trong tôi ngày càng lớn dần, tôi đinh ninh vợ mình đã không chung thủy. Trở về nhà, tôi nặng lời mắng chiếc Vũ Nương thậm chí là dùng đến vũ lực và tôi đã đuổi nàng ra khỏi nhà. Mặc dù nàng đã cố gắng giải thích, minh oan cho mình nhưng tôi vẫn không tin. Họ hàng làng xóm láng giềng cũng đã bênh vực nàng nhưng cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng tha thiết van xin, nhưng tôi chẳng động lòng mà còn đuổi nàng đi.
Quá phẫn uất, tuyệt vọng, vợ tôi vì muốn khẳng định phẩm giá trong sạch, đã tắm gội sạch sẽ, ra bến Hoàng Giang gieo mình xuống sông tự vẫn. Tuy vẫn còn giận, nhưng tôi cũng thương vợ mình, đi tìm nàng nhưng chẳng thấy đâu.
Màn đêm buông xuống, không có mẹ, con trai tôi quấy khóc, tôi dỗ thế nào cũng không nín. Khi tối bế lên, nó bất chợt nói: “Cha Đản lại tới kìa”. Nhìn theo tay con chỉ, tôi nhận ra đó là chiếc bóng của mình in lên bức vách. Tôi giật mình hiểu ra. Trời ơi! Người cha mà con tôi nói lúc trước chính là cái bóng. Thì ra, những lúc vắng vẻ, để dỗ con, vợ tôi thường chỉ lên chiếc bóng của mình trên vách và bảo với con rằng đó là tôi để con yên tâm mà không khóc nữa.
Tôi thật là ngu ngốc, chỉ vì lòng ghen tuông mù quáng, nghe lời đứa trẻ ngây thơ, không tìm hiểu rõ nguồn cơn nên đã gây nên cái chết oan nghiệt cho nàng. Tôi ân hận lắm.
Mấy hôm sau, có người tên Phan Lang mang chiếc hoa vàng của vợ tôi đến, nói rằng đã gặp vợ tôi ở động của phu nhân vua Nam Hải long vương , nhắn rằng: – Nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, vợ tôi sẽ hiện về. Tôi đã lập đàn giải oan cho vợ đúng như lời Phan Lang đã dặn dò. Bỗng nhiên trời đất tối sầm lại, sương khói không biết từ đâu tràn phủ khắp mặt sông nước. Rồi tôi thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau lại có đến hơn năm mươi chiếc xe cờ tán lọng, rực rỡ đầy sông lúc ẩn, lúc hiện. Tôi vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói với vào: “- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa”. Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà tan biến đi.
Nàng trở về chẳng hề trách cứ, oán thán tôi một lời. Điều ấy càng làm tôi đau đớn, day dứt hơn. Chỉ một phút nóng nảy, chỉ vì tính ghen tuông tôi đã cướp đi tình yêu thương của mẹ mà bé Đản vốn được hưởng, và tôi đã đánh mất hạnh phúc của chính mình, mất người vợ thảo hiền, dịu dàng. Cả đời này tôi sẽ sống trong day dứt, đau khổ, và mãi mãi không quên nàng. Đây là hậu quả dành cho những kẻ hay ghen tuông, đa nghi như tôi.
Đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện 12
Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình khá giả ở huyện Nam Xương. Vì ỷ lại gia đình khá giả nên tôi chỉ biết rong chơi mà không học hành gì cả. Ở làng bên, có một cô gái tên là Vũ Thị Thiết dung mạo xinh đẹp, tính lại thùy mị nết na. Tôi vì những tính tốt ấy mà mến nàng, bèn xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ. Biết tôi có tính đa nghi phòng ngừa quá sức nên nàng rất giữ gìn khuôn phép, không bao giờ để vợ chồng bất hòa. Chúng tôi sống với nhau rất hòa thuận, hạnh phúc .
Sau khi cưới vợ chưa được bao lâu thì giặc Chiêm đánh chiếm thành. Bắt nhiều trai tráng trong nước phải đi lính. Tôi tuy con nhà dòng dõi thương nhân giàu có nhưng không có học nên có tên trong hàng đầu danh sách phải đi lính. Trước khi đi mẹ tôi có dặn:”Nay con phải tạm đi tòng quân, chiến trường binh đao không có mắt nên con phải cẩn thân. Tuy là công danh từ xưa ít gặp nhưng trong chỗ binh cách phải biết giữ thân mình làm trọng, gặp khó nên lu, biết lượng sức mà tiến, đừng vì miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy! Quan cao tước lớn nhường người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo cho con được”.
Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Vợ tôi thì rót chén rượu đầy tiễn đưa, đôi dòng lệ chăn chứa. Rồi đó chén đưa vừa cạn dứt áo chinh phụ ,ngước mắt trông lên đã đẫm nỗi buồn ly biệt. Khi tiệc tiễn tàn, tôi cố gắng nén nỗi đau buồn bịn rịn, lưu luyến chia tay mẹ già vợ trẻ, để ra trận. Nhưng trong lòng không thể ngừng nỗi nhớ người mẹ già, người vợ trẻ và đứa con vẫn còn trong bụng vợ. Tôi chỉ mong công cuộc đi lính này sẽ sớm kết thúc để tôi có thể trở về đoàn tụ với gia đình tôi ở chốn quê cũ. Tôi luôn nhớ lời dạy của mẹ, lời khuyên nhủ của vợ nên không màng danh lợi nơi chiến trận chỉ mong có thể an toàn trở về với người mẹ , người vợ đầu ấp tay gối với mình và đứa con thơ còn nhỏ dại !
Ba năm sau, biên cương tan bóng giặc, tôi trở về nhà. Chỉ mới vừa về tới nhà, bên tai tôi đã truyền một tin sét đánh là người mẹ tôi thương yêu và kính trọng đã mất. Bên cạnh đó là một tin mừng khiến tôi hạnh phúc là đứa con vừa bập bẹ học nói. Nhưng quá đau buồn vì người mẹ đã mất, tôi liền bé bé Đản ra thăm mộ mẹ tôi.
Chỉ vì lời nói của đứa con miệng còn hơi sữa mà tôi đã hồ đồ nghi oan cho vợ mình là đã thất tiết, mối nghi ngờ này càng sâu, ngọn lửa hờn ghen đốt cháy tâm can tôi.Khi về đến nhà khiến những hành động ác độc cứ liên tiếp xảy ra. Tôi mắng nhiếc, đánh đập vợ tôi không một chút thương tiếc. Khi ấy, hai chữ “thất tiết” cứ quanh quẩn mãi trong đầu óc của tôi. Tôi không màng đến việc vợ mình đã ngày đêm chăm sóc mẹ già cực khổ, một mình nuôi con vất vả như thế nào.
Tuy rằng hàng xóm có vào giải thích và ngăn cản cho vợ tôi nhưng ngọn lửa đa nghi ấy như đang khống chế đầu óc của tôi. Tôi không thể nào tin tưởng vào lời minh oan ấy. Cả vợ tôi – Vũ Nương cũng mong tôi cho cô ấy một cơ hội để giải thích nhưng không tôi vẫn đánh đập nàng. Tôi đã không hề tin tưởng vào tấm lòng chung thủy của nàng. Tôi không biết rằng tình yêu thiêng liêng của người vợ cao cả đến thế.
Những hành động đó đã tổn thương sâu sắc đến tinh thần và thể xác của vợ tôi. Vết thương ấy cứ theo thời gian mà in lên da vợ tôi. Chính vì hồ đồ, đa nghi mà tôi đã đánh mất nàng. Vì quá đau khổ, VŨ Nương đã tìm đến cái chết trên bến sông Hoàng Giang.
Đêm đó tôi buồn bã vô cùng, tưởng rằng về nhà được đoàn tụ, sum vầy nhưng nào ngờ gia đình tan nát. Trong ngọn đèn khuya, bé Đản chợt nói :”Cha Đản lại đến kìa”. Tôi giật mình hỏi đâu. Nó chỉ bóng tôi trên vách:” Đây này”. Thì ra người đàn ông “đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi” chỉ là cái bóng. Lúc đó tôi biết tôi đã quá hồ đồ, mù quáng và đa nghi. Vì thế mà tôi đã đưa vợ tôi đến con đường chết. Vì thế mà tôi làm cho bé Đản – con tôi trở thành một đứa bé mồ côi mẹ. Sự hạnh phúc trong gia đình tôi đã tan biến.
Một ngày kia, khi tôi đang ở nhà, thì một chàng trai bước vào và tự xưng là Phan Lang, người cùng làng. Cậu ấy nói với tôi rằng cậu ta đã gặp thê tử tôi và kể với tôi cái chết oan của nàng. Làm sao mà tôi có thể tin được một người vừa mới gặp như vậy chứ? Nhưng sau đó chàng ta rút ra chiếc trâm hoa vàng điêu khắc tinh xảo tuyệt đẹp , thứ ngày xưa tôi đã tặng cho thê tử. Tôi sửng sốt. Giờ đây tôi đã tin những gì mà Phan Lang đã nói.
Chàng Phan nói với tôi rằng hãy lập đàn tràng đen ba ngày đêm ở bến Hoàng giang để gặp vợ. Tôi theo lời và quả thật tôi đã gặp vợ mình. Nàng ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng giữa dòng, phía sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán lộng lẫy nhiều sắc màu khắp trên mặt sông ẩn hiện. Tôi vội vẫy gọi nàng. Nàng vẫn ở giữa dòng, nói lời từ biệt rồi từ từ biến mất.
Giờ đây, mọi chuyện dù sao cũng đã qua rồi, bây giờ tiếc nuối lại cũng chỉ còn nỗi ân hận mà thôi. Bây giờ một thân “gà trống nuôi con” tôi mới hiểu nỗi khổ của vợ như thế nào. Tôi chỉ muốn nhắc lại cho mọi người phải biết trân trọng, tin tưởng người phụ nữ của mình, đừng quá gia trưởng nam quyền độc đoán mà phải xảy ra bi kịch.
Đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện 13
Mình vốn là con nhà hào phú, chẳng thích học hành. Đến tuổi trưởng thành, mình xin mẹ mang trăm lạng vàng hỏi Vũ Nương về làm vợ. Vũ Nương con nhà nghèo khó nhưng xinh đẹp thùy mị nết na nhất vùng. Nàng luôn giữ gìn khuôn phép nên tính mình dù có nóng giận, vợ chồng cũng không xảy ra chuyện bất hòa. Năm ấy có giặc Chiêm xâm lấn bờ cõi nên mình xung phong vào quân đội của triều đình đi gẹp giặc. Buổi tiễn mình ra đi, mẹ và vợ lo lắng dặn dò. Mình lại rất lo lắng chuyện ở nhà khi mẹ già, vợ lại mang thai sắp đến kì sinh nở. Nghe nói, mình đi khoảng mươi ngày thì Vũ Nương sinh con đặt tên là Đản. Mẹ mình vì lo lắng thương nhớ mình, sinh ra ốm đau. Vũ Nương thay mình chăm sóc chu đáo nhưng cụ vẫn không qua khỏi. Nàng lo ma chay chu đáo. Năm sau, giặc tan, trở về nhà không có mẹ, lòng mình đau xót vô cùng. Bế con ra thăm mộ mẹ thằng bé quấy khóc, mình phải dỗ dành: – Nín đi con! Đừng khóc. Cha về bà đã mất, lòng cha buồn khổ quá. Đứa bé nín ngay, hỏi mình: – Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít. Mình ngạc nhiên gạn hỏi con. Thằng bé kể : – Đêm nào cũng có một người đàn ông đến, mẹ nó đi đâu người đàn ông nọ đi theo đến đó nhưng không bao giờ bế con cả. Cơn ghen bừng bừng bốc lên, mình tức tốc bế con về nhà chửi um lên cho hả giận, mặc cho Vũ Nương thanh minh, mặc cho họ hàng làng xóm bênh vực. Nào ngờ, Vũ Nương gieo mình xuống bến Hoàng Giang tự tử. Dù giận nàng, mình vẫn tìm cách cứu thây nàng nhưng tìm khắp nơi không thấy. Đêm ấy ! Dưới ngọn đèn khuya, trong căn nhà vắng vẻ chỉ có hai cha con, thằng bé Đản bỗng reo lên : – Cha Đản đến kìa. Giật mình, mình vội hỏi thằng bé. Thằng bé chỉ vào cái bóng trên và bảo đó là bố nó. Mình đau xót ân hận vô cùng. Khi thấu hiệu nỗi oan của vợ thì vợ mình đâu còn nữa !!!
Đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện 14
Tôi tên là Trương Sinh hôm nay tôi xin kể lại câu chuyện của gia đình tôi để các bạn có thể lấy chuyện của tôi ra làm tấm gương mà biết cách giữ gìn hạnh phúc gia đình mình đừng để tới khi gia đình tan nát mới cmar thấy hôi hận như tôi.
Năm tôi tròn 20 tuổi mẹ tôi có nhờ người mai mối và đem sính lễ hỏi cưới cho tôi một người con gái cùng làng nàng tên là Vũ Thị Thiết. Nàng năm ấy vừa tròn đôi chín, dáng người đoan trang hiền thục, mặt mũi ưa nhìn, tính tình đức hạnh… Khi mẹ hỏi cưới nàng cho tôi tôi mừng lắm vì lấy được người vợ vừa xinh đẹp lại hiền ngoan. Chúng tôi sống với nhau hạnh phúc được một thời gian ngắn, khi Vũ Nương vợ tôi mang thai đứa con đầu lòng thì cũng là lúc tôi phải theo lời kêu gọi của triều đình lên đường đi đánh trận. Ngày chia tay tôi nàng chỉ sụt sùi khóc động viên tôi giữ gìn sức khỏe trở về bình yên để gia đình được đoàn tụ bên nhau. Cha được gần con và vợ được gần chồng.
Chiến tranh giặc giã liên miên nhiều năm liền rồi cũng tan. Tôi được trở về quê nhà nên mừng vui lắm. Nhưng vừa về tới nhà tôi liền nghe tin dữ rằng mẹ tôi vì nhớ thương tôi mà đau bệnh qua đời cách đây mấy năm. Tôi buồn lắm bồng đứa con trai của mình đi thăm mộ bà nội nó, nhưng con trai tôi nhất định không chịu theo tôi. Nó bảo tôi không phải là ba nó, ba của nó đêm nào cũng tôi. Khi nghe con trẻ nói vậy tôi bực mình lắm, máu ghen trong người tôi sôi lên sùng sục. Vợ tôi thì nổi tiếng xinh đẹp nên việc nàng có người để ý chẳng phải chuyện khó khăn gì, nên tôi ngay lập tức tin lời con trai về nhà đuổi vợ ra khỏi nhà. Tôi còn nặng lời sỉ nhục nàng ấy khiến nàng ấy chạy ra khỏi nhà và đi đâu tôi không biết.
Chỉ cho tới khi tôi nghe có người trong làng hớt hải chạy về báo với tôi rằng “Trương Sinh ơi! Tôi thấy vợ cậu Vũ Nương nàng ấy nhảy xuống sông tự vẫn rồi” người hàng xóm đó còn kể cho tôi nghe những gì mà vợ tôi đã làm cho mẹ tôi khi bà đau ốm, mà tôi thì vắng mặt không có ở nhà. Người đó nói rằng tôi là người có phúc lắm mới lấy được Vũ Nương làm vợ, nhưng tôi không biết trân trọng vợ của mình. Khi nghe những lời đó tôi thấy hối hận lắm, cảm thấy bàng hoàng trước hành động quyết liệt của vợ mình. Tôi không thể ngờ được Vũ Nương nàng ấy lại phản ứng mạnh mẽ tới như vậy. Trong lúc nóng giận tôi đuổi nàng ấy đi nàng ấy chỉ việc về nhà mẹ đẻ chờ tôi nguôi giận tìm hiểu ngọn ngành rồi đón nàng ấy về nhà. Vậy mà nàng ấy lại chọn cái chết để chứng minh nỗi oan khuất của mình. Tôi đau xót lắm.
Buổi tối nhiều đêm tôi không thể nào chợp mắt được con thơ đòi mẹ, hình ảnh vợ tôi cứ hiện về ám ảnh tâm trí của tôi. Tôi ngồi trước chiếc đèn soi bóng mình trên vách, thì đúng lúc đó con tôi tỉnh giấc nó vui vẻ bảo tôi “ba tôi đó” đến lúc này tôi mới hiểu ra người ba đêm nào cũng tới của con trai tôi chính là chiếc bóng của mẹ nó mà thôi. Tôi ôm mặt khóc rưng rức nhưng đã quá muộn rồi vợ tôi đã chết không sống lại được nữa.
Trong làng tôi đang sống có người đàn ông làm nghề kéo lưới tên Phan Lang ông ta rơi xuống sông không chết, sau khi tỉnh lại ông ta đến nhà gặp tôi bảo rằng ông ấy gặp vợ tôi ở dưới thủy cung. Vợ tôi Vũ Nương mong tôi lập đàn giải oan cho nàng ấy siêu thoát. Tôi nghe theo lời căn dặn của vợ lập đàn giải oan cho vợ của mình, trong làn sương mờ ảo hư thực tôi thấy vợ tôi Vũ Nương ngồi trên kiệu hoa vọng lọng bay lên trời không về với tôi và con trai nữa.
Hôm nay, tôi kể câu chuyện của mình mong các bạn hãy biết trân trọng tình cảm gia đình của mình, đã lấy nhau thì nên tin tưởng vào nhau đừng ghen tuông nghi kỵ để rồi ân hận như tôi suốt đời.
Đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện 15
Chuyện ma quỷ hiện linh lưu truyền trong nhân gian xưa nay không hiếm, tôi chưa hẳn đã tin. Nhưng cầm chiếc trâm cài trong tay, tôi mới hay Phan Lang quả thật đã không nói dối. Chiếc trâm hoa này chính tôi đã mua tặng cho Vũ Nương khi cưới nàng về là vợ. Nghĩ lại cảnh đời trớ trêu tôi càng ân hận và thấy thương Vũ Nương vô cùng. (Đóng vai Trương Sinh)
Tôi vốn sinh ra là con nhà hào phú. Cha tôi mất sớm, chỉ còn có mẹ già nhưng gia cảnh vẫn hết sức sung túc. Thực hiện niềm mong mỏi của mẹ, có người nối dõi tông đường về sau, tôi ngày đêm ưu tư, tìm kiếm người con gái thảo hiền để mẹ có người bầu bạn sớm hôm cho đỡ hờn tủi.
Nghe ở huyện Nam Xương có một người con gái tên là Vũ Thị Thiết tôi đã đem lòng yêu mến. Nàng tuy con nhà nghèo khó nhưng là người đã thùy mị nết na. Lại thêm nàng là người có tư dung tốt đẹp. Nên tôi xin mẹ trăm lạng bac xin cưới nàng về làm vợ.
Tôi từ lâu do được cha mẹ nuông chiều, lại sống trong phú quý nên tính tình có phần kiêu hãnh, lại thêm hay đa nghi người khác. Hiểu được tính tôi, nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa.
Cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì giặc Chiêm Thành quấy nhiễu biên cương. Triều đình bắt nhiều lính tráng đầu quân. Tôi tuy con nhà dòng, nhưng không có học, tên đã ghi trong sổ khai tráng phải ra sung binh loạt đầu. Lo sợ tôi gặp hiểm nguy nơi xa trường, không người thừa tự tông phả, mẹ tôi lo láng vô cùng. Nhiều lần lo lót tiền bạc nhưng cũng không thể miễn được.
Ngày ra đi đất trời u ám. Xóm làng cũng ngậm ngùi đến tiễn đưa đứng kín cả sân nhà. Mẹ tôi ngồi trên phản lớn, nước mắt lưng tròng dặn dò tôi hết sức chu đáo:
– Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít gặp. Nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng. Biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh. Đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được.
Tôi cũng chẳng tham gì công trạng. Từ lâu chỉ muốn sống yên thân, bó buộc nơi thôn dã. Công danh sự nghiệp của người làm trai tuy có quan trọng nhưng phụng dưỡng mẹ già chu toàn vẹn tất. Trọn đời chỉ mong thực hiện đạo hiếu với mẹ. Nắm lấy tay mẹ, tôi quỳ xuống lạy tạ vâng lời, hứa sẽ trở về bình an. Mẹ tôi cũng yên tâm phần nào.
Vũ Nương đứng cạnh cũng rót ly rượu từ biệt thiết tha:
– Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công. Lời tâu công lớn phá giặc đã chầy. Kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng Trường An, nhanh tay đập áo rét. Ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn hàng thư tín, chỉ e không một tin về.
Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ.
Rồi đó, chén rượu tống tiễn tay đưa vừa cạn, dứt áo chinh phu. Ngước mắt trông lên đã đẫm nỗi buồn ly biệt. Trống hội quân vang lên giục giã như cào xé trong lòng. Dù hết sức điềm tĩnh nhưng tôi cũng không thể cầm được dòng nước mát đang lăn chảy. Ra đi chuyến này muôn trùng cách trở, chưa biết ngày về mà nàng lại đang có mang con nhỏ. Lại thêm mẹ già tuổi đã xế chiều, sức không còn khỏe nhỡ có mệnh hệ gì thì biết làm sao.
Tôi suy nghĩ rất nhiều nhưng quân tình gấp gáp đành gác lại riêng tư lên đường cho kịp ngày giờ. Thoáng một cái, gót ngựa đã đến nơi xa. Trong lại chỉ còn trong thấy bóng quê nhà trong mịt mờ khói bụi. Từ đậy, chiến trận ác liệt nên tin tức quê nhà cũng bặt vô âm tính.
Hai năm đằng đẵng trôi qua, cuối cùng giặc dữ cũng quy hàng. Cõi biên thùy lại yên lặng sóng gió. Tôi trở về sau bao năm tháng ly biệt. Hai vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Nhìn đứa con thơ ngơ ngác lần đầu gặp cha toi vô cùng xúc động. Lại thêm mẹ già cùng kiệt đợi con về mà không thấy đã sớm lìa đời, tôi vô cùng đau đớn. Nhiều lần tự trách mình bất hiếu đã không thể làm tròn bổn phận của người con. Mẹ tôi trước lúc lìa khỏi trần gian đã không được nhìn thấy đứa con trai duy nhất. Tôi cũng không được thắp nén hương tiễn đưa vong linh người về suối vàng.
Sáng hôm sau, tôi bế con trai ra viếng mộ mẹ, trong lòng trĩu nặng ưu tư. Lúc thắp hương tưởng niệm, con trai tôi cứ quấy khóc không chịu ở lại, cứ nằng nặc đòi về. Tôi nhẹ nhàng dỗ dành:
– Con nín đi, đừng khóc! Cha về bà đã mất, lòng cha đã buồn khổ lắm rồi! Con đừng khóc thêm nữa!
Nào ngờ, con tôi buộc miệng ngây thơ khiến tôi không khỏi sửng sốt:
– Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít.
Tính tôi hay hoài nghi, lại rất hay ghen, từ trước vốn đã không nặng lòng tin tưởng vợ tôi, nên khi nghe câu nói con trẻ khiến lòng ghen nỗi dậy nhấm chìm cả lí trí:
– Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến. Mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.
Vin vào lời con nói, tôi đinh ninh cho rằng Vũ Nương ở nhà đã không biết giữ gìn trinh tiết, dan díu với gian tình, bôi nhọ gia phong, làm nhục gia thế. Trở về nhà, tôi nặng lời mắng nhiếc thậm tệ, đánh đập cho bỏ tức. Nàng hết lời minh giải, gợi nhắc tình xưa, than lời ai oán. Nàng thề đã giữ trọn tiết hạnh khả phong chẳng khi nào sai trái. Hỏi có làm sao, tôi vẫn không nói. Hàng xóm cảm thương đến can ngan, minh chứng tôi cũng không nghe. Giận qua mất khôn, tôi đã đuổi nàng đi, từ nay đoạn tuyệt, không thèm nhìn nhận nữa.
Quá tuyệt vọng, nàng thốt lời đâu đớn:
– Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
Tôi chỉ nghĩ nàng sẽ đi đâu đó dăm ba ngày, đợi tôi hồi tỉnh sẽ trở về biện minh, oan giải. Nào ngờ, nàng trong lúc bế tắc, lại bị chính chồng mình phủ nhận đã trầm mình xuống sông xanh tận tuyệt, kết liễu cuộc đời trong phẫn uất.
Tôi tuy giận là thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận, cũng động lòng thương. Tôi vội tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả.
Khi Vũ Nương mất ròi, tôi đêm đêm ôm ấp con trẻ thay mẹ. Đứa con không còn mẹ, buồn tủi mà khóc suốt đêm thâu. Tôi phải bế lên dỗ dành. Bất ngờ, con tôi chỉ lên cái bóng của tôi trên tường mà thốt lên rằng:
– Cha Đản lại đến rồi!
Lúc này tôi mới hoảng hồn nhận ra. Thì ra khi tôi đi vắng, Vũ Nương thường chỉ lên cái bóng của mình trên tường nói rằng là cha đó để chơi đùa cùng con. Nàng muốn làm con bớt nỗi trống vắng bóng hình người cha. Tôi vô cùng ân hận, bế con đi khắp làng trên xóm dưới tỏ bày sự tình và xin mọi người tha thứ. Ai cũng ngùi ngùi cảm động. Có người còn khóc thương thảm thiết.
Họ kể tôi nghe, những ngày tôi ở ngoài mặt trận, Vũ Nương ở nhà tuy hết sức đảm đang, khổ nhọc chăm con nhỏ. nàng còn tận tâm phụng dưỡng mẹ già chu đáo nhưng chưa lúc nào than vãn điều gì. Nàng một mình cam chịu, lầm lũi sớm hôm, thay tôi lo chu toàn mọi việc. Mẹ tôi vô cùng cảm động, dù đã gắn gượng đợi tôi về nhưng sức cùng lục kiệt, không thể đợi chờ được thêm. Trước lúc ra đi còn gửi lời dặn dò tha thiết, ca ngợi tấm lòng hiếu thảo của Vũ Nương. Bà còn cầu mong điều may mắn, an lành đến với nàng.
Trời ơi! Chỉ vì nghe lời nói vu vơ của con trẻ mà tôi đã hại chết người vợ hiền đức, thủy chung. Chỉ vì sự ngu ngốc, mê muội của tôi mà tôi đã phụ lòng nàng, phủ nhận công ơn của nàng. Mẹ ơi! Con là đứa con bất hiếu, đã phụ lòng mong mỏi của mẹ. Ơi Vũ Nương! Kiếp này nàng đến với ta bằng tấm lòng trinh bạch. Chỉ vì lòng ghen quá độ mà ta đã nghi oan cho nàng, ích kỉ đến đê tiện, phụ tình khiến nàng phải chết oan uổng.
Đêm khuya vắng, ly rượu nhạt nhòa, nước mắt lưng tròng. Nghĩ đến chuyện xưa mà lòng nặng trĩu như Thái Sơn, ai oán hơn trăm vạn nỗi buồn thảm. Oan nghiệp ấy dù vô tình hay cố ý cũng không thể nào tha thứ được. Tôi không mong muốn điều gì hơn là Vũ Nương sẽ rời khỏi cung nước, trở về cùng chồng, cùng con nhỏ để con thơ có mẹ, mà tôi còn có cơ hội để đáp đền công đức của nàng.
Tôi đã lập đàn giải oan cho vợ đúng như lời Phan Lang đã dặn dò. Lại còn bày biện lễ nghi sẵn sàng đón rước Vũ Nương trở về. Hôm ấy, người trong làng cũng cùng ra xem hết sức đông đảo. Bỗng nhiên trời đất tối sầm lại, sương khói không biết từ đâu tràn phủ khắp mặt sông nước. Rồi quả thấy Vũ nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng. Theo sau lại có đến hơn năm mươi chiếc thuyền nữa, cờ tàn tán lọng, rực rỡ đầy sông. Đoàn thuyền lúc ẩn lúc hiện trong sương khói. Tôi vô cùng mùng rỡ, liền với gọi, van xin nàng tha thứ:
– Ta đã biết mình sai rồi, hãy tha thứ cho ta. Nàng hãy vì tình xưa mà trở về với con đi.
Vũ Nương vẫn ở giữa dòng mà nói với vào, giọng vang vọng như lời gió thổi mây bay:
– Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa.
Tôi có gọi mãi nhưng nàng không nghe nữa. Đoàn thuyền dần ra xa rồi biến mất. Mặt sông hiện ra trơ trọi. Tất cả đã không còn gì nữa. Người trong làng cũng bỏ về hết, mặc tôi một mình than khóc không nguôi. Tôi không trách nàng, chỉ trách mình phụ bạc, ăn ở bất nghĩa, bất tín, vô tình vô cảm. Nàng sẽ tìm thấy sự bình yên nơi cung nước thẳm, không bao giờ trở về trần gian nữa. Tôi mãi mãi mất đi một người vợ thủy chung. Đây là hậu quả xứng đáng dành cho kẻ bạc tình vô tâm như tôi.