Câu lạc bộ bóng đá Barcelona thường được biết đến với tên gọi tắt Barcelona, hay đơn giản là Barça là một câu lạc bộ bóng đá giàu thành tích có trụ sở tại Barcelona, Catalunya, Tây Ban Nha. Barcelona được thành lập vào năm 1899 bởi một nhóm cầu thủ bóng đá người Thụy Sĩ, Anh và Catalunya, được dẫn dắt bởi Joan Gamper. Barcelona là một trong những câu lạc bộ có truyền thống bóng đá lâu đời trên thế giới, không những vậy đây còn là nơi sản sinh ra những huyền thoại bóng đá, những con người đi lên từ khổ cực, những con người cháy hết mình với đam mê bóng đá bất tận. Cùng Mobitool điểm danh những con người tạo nên lịch sử ấy.
Lionel Messi
Lionel Andrés Messi Cuccittini sinh ngày 24 tháng 6 năm 1987, còn được gọi là Leo Messi, là một cầu thủ bóng đá người Argentina hiện đang chơi ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Paris Saint-Germain và là đội trưởng của đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina. Được coi là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất thế giới và là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại, Messi giữ kỷ lục 6 lần giành Quả bóng vàng, 6 lần giành Chiếc giày vàng châu Âu và vào năm 2020 được xếp vào Đội hình trong mơ của Quả bóng vàng. Trước khi rời câu lạc bộ vào năm 2021, anh đã cống hiến toàn bộ sự nghiệp của mình cho Barcelona, tại đây anh đã giành được kỷ lục 35 danh hiệu cấp câu lạc bộ, bao gồm 10 chức vô địch La Liga, 7 Copa del Rey và 4 UEFA Champions League. Là một tay săn bàn lão luyện và cầu thủ kiến tạo hàng đầu, Messi giữ kỷ lục là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất ở La Liga (474), cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong một mùa giải La Liga (50), nhiều hat-trick nhất ở La Liga (36) và UEFA Champions League (8), nhiều pha kiến tạo nhất ở La Liga (192), nhiều pha kiến tạo nhất trong một mùa giải La Liga (21) và Copa América (17). Anh đã ghi hơn 750 bàn thắng trong sự nghiệp cho câu lạc bộ và đội tuyển quốc gia, là cầu thủ có nhiều bàn thắng nhất từ trước đến nay cho một câu lạc bộ.
Messi bắt đầu chơi bóng khi còn nhỏ, câu lạc bộ Barelona đã phát hiện ra tài năng của anh khi anh đang luyện tập cho câu lạc bộ trẻ Newell’s Old Boys. Năm 2000 anh chuyển qua Tây Ban Nha và tập luyện trong lò đào tạo của Barcelona. Mắc chứng thiếu hụt hormone tăng trưởng, anh đã được Barcelona hộ trợ toàn bộ chi phí điều trị. Có trận ra mắt đầu tiên vào mùa giải 2004 – 2005, anh đã phá vỡ kỷ lục cầu thủ trẻ nhất ra sân tại La Liga và là cầu thủ trẻ nhất ghi bàn ở giải đấu đó. Anh đã góp phần mang về cho đội bóng những danh hiệu lớn nhỏ trong khu vực cũng như ngoài thế giới. Tổng cổng số bàn thắng trong tất cả các trận của Messi đã lên tới 464 bàn/563 trận. Vào ngày sinh nhật tuổi 18 của anh, Messi ký hợp đồng đầu tiên với tư cách là một cầu thủ chuyên nghiệp. Nó giúp anh trở thành cầu thủ của Barcelona cho đến năm 2010. Bước đột phá của anh đến hai tháng sau đó, vào ngày 24 tháng 8, trong Joan Gamper Trophy, giải đấu trước mùa giải của Barcelona. Lần đầu tiên đá chính, anh đã có một màn trình diễn được đánh giá cao trước Juventus của Fabio Capello, nhận được sự hoan nghênh từ toàn bộ Camp Nou.
László Kubala
László Kubala Stecz (10 tháng 6 năm 1927 – 17 tháng 5 năm 2002), còn được gọi là Ladislav Kubala, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp. Anh ấy đã chơi ở vị trí tiền đạo cho Ferencváros, Slovan Bratislava , Barcelona và Espanyol, trong số các câu lạc bộ khác. Được coi là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất trong lịch sử, Kubala được coi là người hùng của FC Barcelona. Sinh ra là một công dân Hungary, anh cũng mang quốc tịch Tiệp Khắc và Tây Ban Nha, đồng thời chơi cho các đội tuyển quốc gia của cả ba quốc gia. Kubala được chú ý với khả năng rê dắt nhanh và khéo léo, dứt điểm điềm đạm và mạnh mẽ, cũng như độ chính xác từ những quả đá phạt. Trong suốt những năm 1950, ông là thành viên hàng đầu của đội Barcelona thành công, ghi được 280 bàn thắng sau 345 lần ra sân. Trong lễ kỷ niệm 100 năm 1999 của câu lạc bộ, một cuộc thăm dò của người hâm mộ đã tuyên bố Kubala là cầu thủ xuất sắc nhất từng chơi cho câu lạc bộ Tây Ban Nha. Sau khi giải nghệ với tư cách là một cầu thủ, ông đã có hai thời gian làm huấn luyện viên của Barcelona và cũng là huấn luyện viên cho cả đội tuyển quốc gia cấp cao của Tây Ban Nha và đội tuyển Olympic.
Kubala được chú ý với khả năng rê dắt nhanh và khéo léo, dứt điểm điềm đạm và mạnh mẽ, cũng như độ chính xác từ những quả đá phạt. Sau khi giải nghệ với tư cách là một cầu thủ, ông đã có hai thời gian làm huấn luyện viên của Barcelona và cũng là huấn luyện viên cho cả đội tuyển quốc gia cấp cao của Tây Ban Nha và đội tuyển Olympic. Trong mùa giải La Liga đầu tiên, 1951 – 1952, Kubala ghi 26 bàn sau 19 trận. Con số này bao gồm 7 bàn thắng trong chiến thắng 9 – 0 trước Sporting de Gijón, 5 bàn trước Celta de Vigo và lập hat-trick trước Sevilla và Racing de Santander. Bảy bàn thắng của anh vào lưới Gijón vẫn là kỷ lục ghi nhiều bàn thắng nhất trong một trận đấu ở La Liga. Anh cũng ghi bàn trong trận chung kết Copa del Rey khi Barcelona đánh bại Valencia với tỷ số 4 – 2. Kubala đã nghỉ hưu một thời gian ngắn với tư cách là một cầu thủ vào năm 1961 và ban đầu trở thành huấn luyện viên đội trẻ tại Barcelona, trước khi trở thành huấn luyện viên của đội cao cấp cho mùa giải 1962 – 1963.
Xavi Hernandez
Xavier Hernández Creus sinh ngày 25 tháng 1 năm 1980, thường được biết tới với tên Xavi, là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha. Anh hiện là huấn luyện viên câu lạc bộ Al Sadd của Qatar. Anh được coi là một trong những tiền vệ xuất sắc nhất lịch sử bóng đá thế giới. Anh đã dành trọn phần lớn sự nghiệp thi đấu của mình với câu lạc bộ Barcelona. Anh được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất giải vô địch bóng đá châu Âu 2008 và là một trong năm cầu thủ xuất sắc nhất thế giới mùa giải 2007 – 2008 theo bình chọn của FIFA. Tổng cộng anh đã có 104 lần khoác áo đội tuyển Tây Ban Nha, đoạt danh hiệu vô địch châu Âu 2008 và World Cup 2010, vô địch châu Âu 2012. Xavi là một sản phẩm của lò đào tạo trẻ La Masia của F.C. Barcelona và đã dành cả cuộc đời chơi bóng tại sân Camp Nou từ năm lên 11 tuổi. Anh nhanh chóng vượt qua các cấp độ đội trẻ và đội dự bị và đã từng là cầu thủ chủ chốt trong đội hình Barcelona B của Jordi Gonzalvo vô địch giải hạng ba.
Sự tiến bộ vượt bậc đã giúp anh có trận đấu ra mắt vào ngày 18 tháng 8 năm 1998 ở trận Siêu cúp Tây Ban Nha, trận này anh ghi bàn vào lưới RCD Mallorca. Anh nhanh chóng trở thành thành viên quan trọng trong đội hình của Louis van Gaal vô địch La Liga. Xavi được coi là truyền nhân của Josep Guardiola trong phòng thay đồ của Barca và sau khi Guardiola rời đội bóng, Xavi trở thành tiền vệ kiến thiết của đội bóng. Kể từ mùa giải 2004 – 2005, anh đã trở thành đội phó đội bóng. Ở mùa giải 2005 – 2006, Xavi dính chấn thương đầu gối trái khi tập luyện, anh đã phải ngồi ngoài trong 5 tháng, bỏ lỡ phần lớn mùa giải, nhưng trở lại vào tháng 4 và ngồi dự bị trong trận chung kết cúp C1 2006. Xavi vượt qua Carles Rexach trong danh sách các cầu thủ ra sân nhiều nhất cho Barcelona anh có lần ra sân thứ 452 ở mùa giải thứ 11 chơi cho đội bóng vào ngày 14 tháng 2 năm 2009. Vào ngày 2 tháng 1 năm 2011, Xavi đã vượt qua Migueli về số lần khoác áo Barcelona với 549 lần để trở thành cầu thủ ra sân nhiều nhất trong màu áo Barcelona. Anh cũng là cầu thủ kiến tạo nhiều nhất La Liga. Vào ngày 11/12/2011, trong chiến thắng vang dội 3 – 1 tại sân Santiago Bernabéu trước đại kình địch Real Madrid, Xavi trở thành cầu thủ Barcelona đầu tiên vượt qua cột mốc 600 trận thi đấu cho câu lạc bộ.
Ronaldinho
Ronaldinho sinh ngày 21 tháng 3 năm 1980 tại Porto Alegre – Brasil, tên thật là Ronaldo de Assis Moreira, thường được gọi với cái tên thân mật là Ronnie, biệt danh: Ronaldinho Gaucho, là một cựu cầu thủ bóng đá người Brasil chơi ở vị trí tiền đạo, được đào tạo lúc trẻ tại câu lạc bộ Grêmio. Ronaldinho từng giành danh hiệu Quả Bóng Vàng năm 2005. Anh là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất lịch sử bóng đá thế giới. Ronaldinho, Tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là “Ronaldo nhỏ” Được biết đến ở Brasil với biệt danh “Gaúcho” để phân biệt anh với Ronaldo. Ronaldo chỉ dùng tên Ronaldinho khi đến Châu Âu. Trước khi chuyển đến Milan, anh chơi bóng cho Grêmio, Paris Saint-Germai và FC Barcelona – anh cùng với Samuel Eto’o tạo thành cặp đôi hủy diệt giúp đội bóng giành chức vô địch Champions League đầu tiên trong sự nghiệp cầu thủ năm 2006. Anh trở thành công dân Tây Ban Nha vào tháng 1 năm 2007.
Tài năng của Ronaldinho bắt đầu được biết đến lúc nhỏ và anh được đặt ra biệt danh Ronaldinho vì anh thường là cầu thủ trẻ nhất và nhỏ nhất trong những trận đấu ở câu lạc bộ dành cho thanh thiếu niên. Anh gây sự chú ý trên các phương tiện truyền thông ở tuổi mười ba khi anh ghi tất cả 23 bàn thắng trong một chiến thắng 23 – 0 với một đội bóng địa phương. Trong thời gian gắn bó với Barcelona anh được đánh giá là cầu thủ số một thế giới. Với khả năng rê bóng điêu luyện, kỹ thuật cá nhân hơn người, tốc độ qua người của anh rất nhanh. Ronaldinho còn là một chuyên gia đá phạt, anh có công rất lớn cho 2 chức vô dịch Tây Ban Nha và một lần đăng quang Champion League. Sau quãng thời gian chia tay Barcalone thì phong độ của anh đã giảm đáng kế. Anh nổi bật giữ đám đông với khuôn mặt luôn nở nụ cười, dù bị phạm lỗi anh vẫn cười tươi, anh chơi bóng bằng cả đam mê, niềm vui của mình. Những pha đi bóng như anh đang làm ảo thuật với trái bóng, làm người xem rất thích thú. Anh là một con người với tài năng và nhân cách tốt, đáng để giới trẻ noi theo.
Rivaldo
Rivaldo Vítor Borba Ferreira sinh ngày 19 tháng 4 năm 1972 tại Paulista, Pernambuco, được biết đến nhiều nhất với tên Rivaldo, là một cựu cầu thủ bóng đá Brasil chơi ở vị trí tiền vệ. Anh từng được FIFA bầu là Cầu thủ xuất sắc nhất năm 1999 và đoạt Quả Bóng Vàng năm 1999. Giai đoạn nổi bật nhất trong sự nghiệp của Rivaldo là 5 năm thi đấu tại câu lạc bộ xứ Catalan Barcelona, khi mà anh giúp câu lạc bộ này giành được chức vô địch La Liga 2 năm liên tiếp (1998 – 1999) và Copa del Rey 1998, cũng trong giai đoạn này anh góp công lớn đưa Brasil lên ngôi vô địch thế giới lần thứ 5. Tháng 4 năm 2004, anh được Vua Pelé đưa vào danh sách 125 cầu thủ còn sống vĩ đại nhất. Trong khoảng thời gian từ 1993 đến 2003, Rivaldo đã chơi 86 trận và ghi 36 bàn cho đội tuyển bóng đá quốc gia Brazil (vàng – xanh), và là một trong những nhân tố chính giúp đội này đoạt FIFA World Cup năm 2002. Ở vai trò tiền vệ tấn công, anh được xem như là người có khả năng kiến thiết trận đấu tốt và mang nhiều những phẩm chất kỹ thuật điêu luyện. Anh còn nổi tiếng với những cú sút lật bàn đèn.
Cựu danh thủ Brazil với các chân trái tài hoa, có những cú sút với quỹ đạo bóng rất quái lạ, đẹp mắt. Với lối chơi được xây dựng trên kỹ thuật cá nhân mang đậm phong cách bóng đá Brazil, Rivaldo đã nhanh chóng lấy lòng được giới hâm mộ. Tuy là một tiền vệ công, nhưng số bàn thắng của anh là niềm mơ ước của các tiền đạo thực thụ. Bàn thắng đáng nhớ nhất của anh là hattrick vào lưới Valencia tháng 6/2001 góp phần giúp Barcelona dành vé vào chơi ở sân chơi danh giá Champions League. Anh cùng Barcelone dành 2 danh hiệu vô địch Tây Ban Nha 1998, 1999. Vào tháng 6 năm 2002, một sự kiện lớn đã ảnh hưởng đến sự nghiệp của Rivaldo, đó là huấn luyện viên van Gaal, người có hiềm khích với anh từ trước, lại trở về làm huấn luyện viên Barcelona. Rivaldo ngay sau đó đã hủy bỏ hợp đồng với câu lạc bộ Tây Ban Nha và ký một hợp đồng thời hạn 3 năm với câu lạc bộ Ý AC Milan. Với Milan, anh đoạt Coppa Italia và chức vô địch UEFA Champions League vào năm 2003. Thời gian ở Milan, anh không làm được như kỳ vọng. Rivaldo rời câu lạc bộ sau một thời gian đá bóng ít mà chấn thương thì nhiều. Trở lại Brazil, anh đá cho Cruzeiro tại Belo Horizonte. Đến năm 2004 anh lại về châu Âu, gia nhập câu lạc bộ Hy Lạp Olympiacos F.C sau khi từ chối lời mời sang Premier League chơi cho Bolton.
Andres Iniesta
Andrés Iniesta Luján sinh ngày 11 thâng 5 năm 1984 là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha thi đấu ở vị trí tiền vệ trung tâm và là đội trưởng của câu lạc bộ J1 League Vissel Kobe. Thường được coi là một trong những tiền vệ xuất sắc nhất trong lịch sử bóng đá và được biết đến nhiều là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất mọi thời đại, Iniesta dành phần lớn sự nghiệp tại Barcelona, nơi anh là đội trưởng trong ba mùa giải. Trong suốt sự nghiệp cầu thủ, Iniesta được mệnh danh là “El Ilusionista” (Ảo thuật gia), “El Cerebro” (Bộ não), “El Anti-Galáctico” (một cách chơi chữ của các cầu thủ Real Madrid, Los Galácticos),” El Caballero Pálido” (Hiệp Sĩ trắng). Iniesta đến từ Fuentealbilla, một ngôi làng nhỏ ở tỉnh Albacete, Castile-La Mancha, nơi anh chủ yếu chơi futsal do không có sân bóng trong làng. Năm 12 tuổi, khi thi đấu cho Albacete Balompié ở một giải đấu trẻ đá sân bảy người ở Albacete, anh đã thu hút sự chú ý của các tuyển trạch viên từ các câu lạc bộ trên khắp Tây Ban Nha. Cha mẹ anh biết huấn luyện viên đội trẻ của Barcelona, Enrique Orizaola, và ông đã thuyết phục họ xem xét gửi Iniesta đến học viện đào tạo trẻ của Barcelona.
Ở mùa giải 2004 – 2005, Iniesta ra sân ở 37 trong số 38 trận đấu tại giải quốc gia – nhiều hơn bất kỳ cầu thủ nào khác – mặc dù 25 trận trong số này là những lần ra sân từ băng ghế dự bị. Anh ấy đã ghi hai bàn khi Barcelona vô địch La Liga. Chấn thương của Xavi ở đầu mùa giải 2005 – 2006 cho phép Iniesta ra sân thường xuyên hơn ở trung tâm hàng tiền vệ, và anh tiếp tục cải thiện và phát triển. Anh đã thi đấu 11 trận UEFA Champions League, bao gồm cả lần ra sân ở hiệp hai trong trận chung kết năm 2006, để thay thế Edmílson. Những đóng góp của anh cho đội bóng đã được huấn luyện viên Frank Rijkaard ca ngợi khi Barcelona giành cú đúp vô địch quốc gia và Champions League. Trong trận đấu loại trực tiếp đầu tiên của cùng một giải đấu, anh đã chơi ở vị trí tiền vệ trung tâm trong trận gặp Liverpool. Iniesta lần đầu tiên thi đấu ở vị trí tiền đạo cánh trái cho Barça trong hai trận đấu với Levski Sofia ở Champions League, ghi hai bàn. Ở vòng đấu loại trực tiếp đầu tiên của giải đấu đó, anh đã thi đấu ở vị trí tiền vệ trung tâm trong trận gặp Liverpool. Mặc dù được huấn luyện viên Rijkaard thay đổi vị trí khắp sân, mùa giải 2006 – 2007 vẫn là mùa giải ghi bàn nhiều nhất của Iniesta cho đến nay.
Hristo Stoichkov
Hristo Stoichkov sinh 8 tháng 2 năm 1966 tại Plovdiv, là một cựu cầu thủ bóng đá người Bulgaria. Ông là chủ nhân Quả Bóng Vàng năm 1994. Hristo Stoichkov bắt đầu sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp năm 1984 khi mới 18 tuổi với CLB ZSKA Sofia tại giải hạng nhất Bulgaria. Điểm nổi bật của ông là kỹ thuật hoàn chỉnh, tốc độ cao và cái chân trái cực khéo. Sau khi đã giành được 3 chức vô địch quốc gia và 5 cúp quốc gia, năm 1990 ông đã chuyển sang thi đấu cho CLB FC Barcelona tại Tây Ban Nha. Trong 5 năm thi đấu tại Barcelona, ông cùng đồng đội đã liên tiếp giành 5 chức vô địch La Liga liên tiếp. Năm 1994 là năm cực kỳ thành công của Stoichkov.
Sau khi, ông giành được những vinh quang cùng với CLB Barcelona tại La Liga, ông đã cùng các đồng đội đưa đội tuyển bóng đá quốc gia Bulgaria vào đến bán kết giải vô địch bóng đá thế giới (World Cup), đoạt luôn giải vua phá lưới với 6 bàn thắng và qua đó được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA. Sau những thành công đó cùng gánh nặng tuổi tác, ông đã chuyển sang chơi cho Parma F.C. năm 1995. Tuy nhiên chỉ sau đó một năm ông đã lại trở về chơi cho “Barça”. Sau World Cup cuối cùng không mấy thành công với đội tuyển Bulgaria ông đã chuyển sang thi đấu tại các giải nhà nghề của Liban, Nhật Bản và Mỹ. Stoichkov đã 4 lần được bầu là cầu thủ của năm tại Bulgaria, đã chơi tổng cộng 84 trận cho đội tuyển quốc gia và ghi được 38 bàn thắng. Tháng 6 năm 2004, ông lên thay Plamen Markov làm huấn luyện viên trưởng đội tuyển quốc gia Bulgaria đến tháng 4 năm 2007.
Josep Guardiola
Josep “Pep” Guardiola Sala sinh ngày 18 tháng 1 năm 1971, là 1 cựu tiền vệ bóng đá người Tây Ban Nha và hiện là huấn luyện viên trưởng của Manchester City. Ông cống hiến phần lớn thời gian sự nghiệp cho Barcelona và là đội trưởng của đội hình trong mơ dưới thời Johan Cruyff, đội hình đã giành chiếc Cúp châu Âu đầu tiên cho Barcelona. Guardiola cũng từng chơi cho Brescia Calcio, A.S. Roma, Al-Ahli và Dorados de Sinaloa. Guardiola chơi cho cả đội tuyển Tây Ban Nha và đội tuyển Catalonia. Ông hiện là một trong những huấn luyện viên bóng đá xuất sắc nhất thế giới. Sau khi giã từ sự nghiệp, Guardiola trở thành huấn luyện viên đội trẻ Barcelona, FC Barcelona Atlètic. Vào ngày 8 tháng 5 năm 2008, chủ tịch Barcelona Joan Laporta thông báo Guardiola sẽ thay thế Frank Rijkaard làm huấn luyện viên đội 1. Ông ký hợp đồng vào ngày 5 tháng 6 năm 2008. Trong mùa giải đầu tiên Guardiola làm huấn luyện viên, Barcelona đã giành cú ăn 6 ngoạn mục với chức vô địch La Liga, Cúp Nhà vua Tây Ban Nha, Champions League, Siêu cúp bóng đá Tây Ban Nha, Siêu cúp châu Âu, FIFA Club World cup.
Mùa giải thứ 2 Josep “Pep” Guardiola Sala dẫn dắt đội bóng, F.C. Barcelona giành cú đúp ở La Liga và Cúp Nhà vua Tây Ban Nha, ở đấu trường Champions League, đội bóng đã để thua Inter Milan ở bán kết với tổng tỉ số 2-3. Mùa giải thứ 3, 2010 – 2011, F.C. Barcelona tiếp tục thâu tóm tất cả các danh hiệu có thể ngoại trừ việc để vuột mất Cúp Nhà vua Tây Ban Nha (thua đại kình địch Real Madrid F.C 0 – 1 bởi bàn thắng duy nhất của Cristiano Ronaldo). Mùa giải 2011-2012 là mùa giải không thành công của Barcelona khi đội bóng về nhì tại La Liga sau Real Madrid đồng thời không thể bảo vệ chức vô địch Champions League. Ngày 27 tháng 4 năm 2012, Pep đã chính thức nói lời chia tay Barcelona sau 4 năm dẫn dắt, để lại lối chơi Tiqui-Taca đã được ông phát triển tới mức cao nhất cùng với 13 danh hiệu. Người thay thế dẫn dắt Barca là Tito Vilanova. Ngày 26 tháng 5 năm 2012, với chiến thắng trong trận chung kết Cúp Nhà vua Tây Ban Nha, Pep Guardiola đã có trận đấu cuối cùng trên cương vị huấn luyện viên của Barcelona. 14 danh hiệu trong 4 năm dẫn dắt của Pep là quá đủ để nói đến thành công của Triều đại rực rỡ nhất trong lịch sử Barcelona.
Johan Cruyff
Johan Cruijff sinh 25 tháng 4 năm 1947 tại Amsterdam, mất ngày 24 tháng 3 năm 2016 tại Barcelona, là một cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Hà Lan. Khi là cầu thủ, ông từng giành giải thưởng Quả Bóng Vàng ba lần (1971, 1973 và 1974). Cruijff là một trong những thành viên nổi tiếng nhất của triết lý bóng đá có tên Bóng đá tổng lực do Rinus Michels tạo ra. Trong thập niên 1970, bóng đá Hà Lan phát triển từ một nền bóng đá ít tên tuổi trở thành một thế lực. Cruyff dẫn dắt đội tuyển Hà Lan vào đến chung kết Giải bóng đá vô địch thế giới 1974 và đoạt được danh hiệu Quả bóng vàng dành cho cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu đó. Cruyff thành thạo năm ngoại ngữ. Với biệt danh “Thánh Johan”, ông được coi là cầu thủ Hà Lan xuất sắc nhất mọi thời đại và là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất lịch sử bóng đá thế giới. Tại cấp độ câu lạc bộ, Cruyff khởi nghiệp tại Ajax. Ông đã cùng câu lạc bộ 8 lần vô địch quốc gia và giành ba Cúp C1 châu Âu. Năm 1973 ông chuyển đến FC Barcelona và lập Kỷ lục chuyển nhượng cầu thủ bóng đá mới. Ông có được danh hiệu La Liga cùng đội bóng ngay mùa đầu tiên và giành Quả bóng vàng châu Âu năm đó.
Được coi là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất trong lịch sử bóng đá, phong cách chơi bóng và triết lý bóng đá của Cruyff đã ảnh hưởng đến các nhà quản lý cũng như các cầu thủ. Ajax và Barcelona là một trong những câu lạc bộ đã phát triển các học viện trẻ dựa trên phương pháp huấn luyện của Cruyff. Triết lý huấn luyện của ông đã giúp đặt nền móng cho sự hồi sinh những thành công quốc tế của Ajax trong những năm 1990 và những thành công của bóng đá Tây Ban Nha ở cả cấp độ câu lạc bộ và quốc tế trong những năm 2008 đến 2012 được coi là bằng chứng về tác động của Cruyff về bóng đá đương đại. Và theo chính lời của Johan Neeskens, “Nếu bạn nhìn vào những cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử, hầu hết họ đều không thể huấn luyện. Nếu bạn nhìn vào những huấn luyện viên vĩ đại nhất trong lịch sử, hầu hết họ không phải là những cầu thủ vĩ đại. Johan Cruyff đã làm được cả hai điều đó và trong một phong cách phấn khởi như vậy. Sau khi giải nghệ vào năm 1984, Cruyff cũng có nhiều thành công trong sự nghiệp huấn luyện viên với Ajax và FC Barcelona và mất năm 2016.
Michael Laudrup
Michael Laudrup sinh ngày 15 tháng 6 năm 1964 là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đan Mạch. Ông là cựu HLV của câu lạc bộ bóng đá Anh Swansea City. Thành tích nổi bật nhất Michael Laudrup từng đạt được là với đội bóng Tây Ban Nha FC Barcelona, nơi ông đã dành bốn chức vô địch La Liga liên tiếp, cũng như UEFA Champions League năm 1992. Laudrup nổi tiếng với sự kiện chuyển đến đại kình địch của Barca là Real Madrid vào năm 1994, tại đó ông đã giành chức vô địch La Liga thứ năm trong sự nghiệp. Michael Laudrup ghi được 37 bàn trong tổng số 104 lần khoác áo Đội tuyển bóng đá quốc gia Đan Mạch, một thành tích chỉ kém của Peter Schmeichel (129 trận) và Thomas Helveg (108 trận). Từ tháng 11 năm 1994, ông làm đội trưởng của đội tuyển quốc gia Đan Mạch trong 28 trận trước khi giải nghệ tháng 6 năm 1998.
Năm 1999, ông được bầu chọn là cầu thủ nước ngoài xuất sắc nhất tại giải bóng đá Tây Ban Nha trong giai đoạn 25 năm. Đến tháng 4 năm 2000, Laudrup được phong tước hiệp sĩ, Huân chương Dannebrog. Tháng 11 năm 2003, để kỉ niệm năm thành lập UEFA, ông được Hiệp hội bóng đá Đan Mạch bầu chọn là Cầu thủ vàng của bóng đá nước này; cầu thủ xuất sắc nhất Đan Mạch trong 50 năm qua. Tháng 11 năm 2006, Hiệp hội bóng đá Đan Mạch chính thức tôn vinh ông là cầu thủ Đan Mạch xuất sắc nhất mọi thời đại. Sau khi giải nghệ, Laudrup theo nghiệp huấn luyện, ông trở thành trợ lý HLV đội tuyển quốc gia Đan Mạch. Rồi làm HLV cho câu lạc bộ cũ của ông là Brøndby IF năm 2002, tại đó ông đã dẫn dắt câu lạc bộ này tới chức Superliga Đan Mạch. Vào tháng 5 năm 2006, Laudrup quyết định không tái ký hợp đồng với Brøndby IF. Năm 2007, Brøndby IF quyết định đặt tên băng ghế chỉ đạo của ông tại sân vận động là “Băng ghế Michael Laudrup”, điều này được sự chấp thuận của Laudrup. Năm 2004, Michael Laudrup là một trong 3 cầu thủ Đan Mạch được Pelé bầu vào danh sách FIFA 100.