Phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc của Tố Hữu, ta sẽ thấy được sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển, dân gian với yếu tố cách mạng hiện đại. Chính vì thế mà thơ Tố Hữu có khả năng thấm sâu vào tâm hồn bạn đọc nhiều thế hệ. Hãy cùng DINHNGHIA.COM.VN tìm hiểu, cảm nhận, bình giảng và phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc qua bài viết dưới đây.
Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn nhất và tiêu biểu nhất của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông là một người chiến sĩ với tư tưởng cộng sản, một nhà thơ mang tư tưởng cách mạng. Vì thế, Tố Hữu được xem là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng. Nhắc đến Tố Hữu là nói đến một hồn thơ trữ tình – chính trị, rất sâu sắc và đậm đà bản sắc dân tộc. Suốt cuộc đời mình, nhà thơ đã viết về lý tưởng lớn, lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn của người chí sĩ.
Tố Hữu còn gắn bó với dân sâu sắc, bởi vậy mà các tác phẩm của ông luôn gần gũi với nhân dân. Ông để lại một sự nghiệp văn chương phong phú, giàu giá trị và tác phẩm Việt Bắc là một trong những áng thơ đặc sắc tiêu biểu cho hồn thơ của Tố Hữu. Kết tinh của tác phẩm này được lắng đọng trong mười câu thơ diễn tả nỗi nhớ của người về xuôi với cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc hòa quyện thành bức tranh tứ bình. Hãy cùng cảm nhận, bình giảng và phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc qua bài viết dưới đây.
Nội dung chính bài viết
Đôi nét về nhà thơ Tố Hữu và khái quát chung bài thơ Việt Bắc
Nhà thơ Tố Hữu được yêu mến bởi chất thơ rất riêng đầy sức sáng tạo. Với 6 tập thơ tiêu biểu như Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa, Một tiếng đờn đều gắn liền với những chặng đường lớn của cách mạng Việt Nam. Có lẽ thế mà thơ ông được ví như cuốn biên niên sử bằng thơ của cách mạng dân tộc. Ông đã hoàn chỉnh phong cách thơ của riêng mình, một cuộc đời thơ của mình mà không thể lẫn với bất kỳ ai.
Trước khi phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc, ta nhận thấy đây là những áng thơ trong tập thơ cùng tên của Tố Hữu viết về thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Bài thơ Việt Bắc được xem là đỉnh cao của tác giả. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ là nhân sự kiện chiến dịch Điện Biên phủ thắng lợi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu từ Việt Bắc về thủ đô, Tố Hữu đã viết Việt Bắc.
Tác phẩm là một bức tranh trữ tình mà hoành tráng, bao quát cả một diện lớn về thời gian suốt 15 năm, với một không gian rộng lớn là toàn bộ Việt Bắc. Phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc, ta sẽ thấy đây là đoạn đặc sắc và mang giá trị nội dung cũng như nghệ thuật lớn lao.
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Đây là một trong những đoạn thơ đặc sắc nhất trong tác phẩm. Phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc qua những áng thơ này, ta sẽ thấy phần nào vẻ đẹp của tác phẩm. Chỉ với 10 câu thơ nhưng cũng đủ tập trung nói đến một chủ đề và đạt đến sự toàn bích.
Đoạn thơ này được chia làm hai phần. Phần đầu gồm hai câu, nó như lời đưa đẩy trong các cuộc hát giao duyên. Trong đó, người con trai (người về xuôi) vừa ướm hỏi lòng người ở lại, vừa khẳng định những tình cảm trong lòng mình. Phần sau sẽ bao gồm 8 câu chia thành 4 cặp lục bát. Điểm đặc sắc hơn cả chính là cứ câu lục tả hoa thì câu bát tả người. Đoạn thơ như một bức tranh tứ bình diễn tả hoa và người Việt Bắc trong bốn mùa bằng những nét đặc trưng nhất của nơi đây. Cảnh sắc thiên nhiên cũng như con người Việt Bắc được kết tinh một cách cô đúc và hàm súc một cách đặc biệt trong đoạn thơ này.
Việt Bắc là bài thơ được viết theo hình thức đối đáp của dân gian. Hai câu thơ đầu, về chức năng đối đáp, hai câu thơ đưa đẩy để nối liền các mảng đề tài trong một cuộc hát. Đó là người con trai ướm hỏi người con gái.
“Ta về mình có nhớ ta”
Lời hỏi mang giọng tình tứ với cách xưng hô ta mình – mình ta. Quan trọng hơn cả và tinh tế hơn cả chính là sự cao nhã trong tình cảm. Ta về chẳng biết mình có nhớ ta không, nhưng ngay cả khi mình không nhớ ta thì ta vẫn cứ nhớ mình – lời người về xuôi gửi gắm với người ở lại. “Ta” và “mình” là cách xưng hô thân tình thể hiện tình quân dân, nhưng với ngôn ngữ mộc mạc, đã thể hiện sự gắn bó như người thân trong một gia đình, như những người bạn tri kỷ lâu năm. Nay phải cách xa biết bao tâm sự, bao nhiêu lưu luyến không nỡ xa rời, tất cả sẽ kết thành nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy mới duyên dáng và tế nhị biết bao:
“Ta về ta nhớ những hoa cùng người”.
Như vậy là người ra đi khẳng định tình cảm của mình bằng nỗi nhớ, chính là nỗi nhớ về những gì đẹp nhất của Việt Bắc. Đó là hoa và người. Trong nỗi nhớ của người đi, hai hình ảnh này là đồng hiện, soi chiếu vào nhau. Hoa là thứ đẹp nhất của thiên nhiên, còn người ta lại là “hoa của đất”. Vì vậy, cứ nhớ đến người thì hiện hóng hoa và ngược lại, hễ nhớ về hoa thì hiển hiện hình người bởi hoa và người đâu có thể tách rời.
Có thể thấy, tranh tứ bình là một trong những loại hình rất phổ biến trong nghệ thuật thơ văn trung đại. Nó thường là một bộ tranh gồm bốn bức mô tả bốn mặt của một đối tượng nào đấy. Vì vậy, tự nó đã có ý nghĩa hoàn chỉnh. Ta đã từng gặp những bộ tranh tứ bình như tùng – cúc – trúc – mai, xuân – hạ – thu – đông, ngự – tiều – canh – mục, long – li – quy – phượng… Trong thơ ca, ta cũng từng bắt gặp rất nhiều như là cảnh “Trông bốn bề” trong Chinh phụ ngâm, đoạn “buồn trông” khi Kiều ở lầu ngưng Bích, đoạn thơ mô tả thời oanh liệt của con hổ trong Nhớ rừng của Thế Lữ.
Khi phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc, ta thấy tác giả đã miêu tả được một cách toàn diện cũng như thâu tóm được những gì là đặc trưng nhất. Nhà thơ Tố Hữu sử dụng lối vẽ tranh tứ bình rất nhuần nhuyễn trong nhiều bài thơ, đoạn thơ này được xem là bộ tranh tứ bình tứ quý về hoa và người trong 4 mùa của Việt Bắc.
Phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc qua hình ảnh mùa đông
Mở đầu với một hình ảnh mang tính khái quát, trong đó Việt Bắc hiện lên như một miền quê thật đẹp xiết bao:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao cài thắt lưng”
Gam màu cơ bản của bức tranh chính là màu xanh. Đó là một màu xanh mênh mang mà trầm tĩnh của rừng già. Nó gợi lên một miền quê êm đềm và tĩnh lặng. Thế nhưng trên cái nền xanh ấy, chúng ta nhìn thấy hoa chuối đỏ tươi, bập bùng cháy như những bó đuốc. Nếu ai đã biết hoa chuối nở, sẽ thấy rằng nhà thơ chỉ viết hai chữ “đỏ tươi” nhưng cũng đủ gợi cho ta thấy hoa chuối đã làm sáng lên cả một góc rừng. Chính loài hoa đơn mộc bình lặng này lại khiến cho cảnh rừng trở nên sống động hơn.
Bên cạnh đó, hoa chuối lại được tổ điểm bởi những tia nắng ở câu thứ hai càng làm cho không khí vốn trầm mặc của nơi này trở nên linh động và tươi sáng hơn. Trên cảnh nền ấy, hình ảnh con người xuất hiện “đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Người đứng trên đỉnh đèo cao, ánh nắng chiếu vào lưỡi da trên thắt lưng làm lóe sáng. Hình ảnh này gợi lên tư thế vững chãi và sự tự tin của người làm chủ thú rừng. Thơ Tố Hữu thương mô tả con người trong tư thế ấy, bài thơ “Lên Việt Bắc” được nhà thơ ghi lại:
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều.
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo”.
Cũng là một hình ảnh ấy, thế nhưng ở đoạn thơ trên nhà văn đã viết trong 4 câu thơ 28 chữ, còn ở bài Việt Bắc thì dường như nhà thơ đã cô đọng hơn vào 8 chữ. Tố Hữu không đi vào vẽ kĩ mà chỉ chấm phá vài nét song cũng đủ cho ta hình dung khá rõ về hình tượng. Như thế, tương ứng với một cảnh hoa là một dáng điệu của con người mà mỗi dáng điệu ấy lại toát lên phẩm chất cao quý của người Việt Bắc.
Thiên nhiên Việt Bắc trong hai câu thơ trên đã mở ra khiến cho người đọc ngẩn ngơ, bởi vẻ đẹp rất trữ tình của núi rừng Tây Bắc nơi đây. Những bông hoa chuối đỏ tươi nở ra rực rỡ giữa mùa đông lạnh giá làm cho khung cảnh thiên nhiên tuy lạnh giá nhưng lại vô cùng sinh động và ấm áp lòng người bởi sắc đỏ của hoa chuối rừng chính nét quyến rũ rất riêng. Hình ảnh người con gái đi hái măng, lấy nấm với con dao sắc nhọn là công cụ làm việc đã thể hiện được sự sinh động của con người trong công việc thường nhật của mình.
Ánh nắng của mùa đông đã làm cho không khí trở nên ấm áp hơn bao giờ hết, không phải là màu u ám, ảm đạm mà chúng ta thường thấy trong những bài thơ khác miêu tả về mùa đông. Mùa đông trong thơ của Tố Hữu vẫn đẹp, vẫn sinh động hấp dẫn lòng người hơn bao giờ hết.
Bức tranh mùa xuân trong bộ tranh tứ bình của Tố Hữu
Phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc thì hình ảnh về mùa xuân tươi đẹp khiến tâm hồn mỗi chúng ta cảm thấy xao xuyến. Bức tranh thứ hai này tiếp tục được nhà thơ mở ra với những nét chấm phá tiêu biểu. Trong hai câu thơ này, Tố Hữu đã khéo léo và linh hoạt chuyển đổi thời gian từ mùa đông sang mùa xuân. Từ hình ảnh hoa chuối rừng đỏ tươi rực rỡ sang sắc hoa mơ trắng trong tinh khiết, thể hiện không khí mùa xuân đang ngập tràn trên mảnh đất Tây Bắc.
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.
Đến đây, nền xanh trầm tĩnh đã nhường chỗ cho nền trắng tinh khiết của hoa mơ rừng. Hai từ “trắng rừng” khiến cảnh rừng như bừng sáng. Hoa mơ là dấu hiệu báo trước khi mùa xuân tới ở nơi đây, bởi loại hoa này thường chỉ ra vào mùa xuân, giống như hoa đào và hoa mai. Hình ảnh về một rừng hoa mơ trắng thơm ngát quyến rũ, làm say đắm lòng người được gợi mở trong câu thơ làm cho người đọc ngây ngất trước cảnh đẹp của thiên nhiên. Hình ảnh người con gái chuốt từng sợi giang để làm dây gói bánh chưng, bánh tét, làm nón lá khiến cho không khí mùa xuân trở nên gần gũi ấm áp hơn bất kỳ lúc nào.
Ta nhận thấy rằng đây là hình ảnh có sức ám ảnh lớn đối với hồn thơ Tố Hữu. Bởi Việt Bắc trong nỗi nhớ của Tố Hữu dường như không thể thiếu sắc hoa này. Sau này, trong tác phẩm “theo chân Bác”, nhà thơ cũng đã viết:
“Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về. Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”.
Trong cái nền cảnh ấy, hiện lên con người Việt Bắc với những công việc thầm lặng “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”. Hai chữ “chuốt từng” gợi ra biết bao sự cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa. Không biết người đan nón kia gửi gắm từng sợi giang nỗi niềm gì?.
Phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc qua nét đẹp mùa hạ
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”.
Trong những bức họa trên, chúng ta mới thấy được đường nét, màu sắc và ánh sáng. Đến đây, ta nghe thấy tiếng âm thanh của rừng, đó là tiếng nhạc ve. Chính nhạc ve đã làm mọi thứ trở nên xao động. Phải nói rằng trong các bức tranh tứ bình ở đây thì mùa hè Việt Bắc là đặc sắc hơn cả. Ve kêu gọi hè đến, hè về làm cho những rừng hổ phách ngả sang vàng. Ai đã từng lên Việt Bắc, dễ thấy những hình ảnh kỳ lạ của rừng phách. Phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc, những nét đẹp của mùa hạ tươi vui cũng là những ấn tượng sâu đậm lưu giữ trong tâm trí chúng ta.
Mùa hè của sự sôi động, nó khác hẳn với sự ấm áp của mùa đông cũng như sự tinh khôi của màu xuân. Khi mùa hè tới thì rừng núi Việt Bắc râm ran tiếng ve kêu, màu vàng của hổ phách kết hợp với tiếng ve khiến cho thiên nhiên nơi đây. Tiếng ve đã phá vỡ sự tĩnh lặng và thể hiện sự chuyển biến thời gian mạnh mẽ.
Trong những ngày cuối cùng của mùa xuân, những cây phách vẫn là màu xanh, nụ hoa vẫn náu kín trong những chiếc lá. Nhưng khi những tiếng ve đầu tiên của mùa hạ cất lên thì chúng đồng loạt trổ hoa vàng. Chỉ đôi ba ngày cũng đủ khiến rừng phách trổ hoa vàng ruộm thật đẹp. Nhà thơ đã sử dụng chữ “đổ” cũng thật tinh tế và đặc sắc. Nó đã nhấn mạnh đến tính mau lẹ trong sự biến chuyển của màu sắc, đồng thời cũng diễn tả những trận mưa hoa vàng rừng phách mỗi khi có một luồng gió ào qua.
Rõ ràng, gam màu đến đây đã thay đổi hẳn, sắc trắng đã nhường chỗ cho sắc vàng nổi bật. Và dường như, âm thanh đã làm thay đổi màu sắc. Trong phông cảnh ấy, hình ảnh người lao động xuất hiện đầy kiên nhẫn – đó là cô gái Việt Bắc đang hái măng một mình. Hình ảnh này trong thơ Tố Hữu đã làm tốt lên dáng điệu chịu thương chịu khó, hay lam hay làm giàu sức hy sinh của những cô gái nơi đây.
Nét đẹp mùa thu trong bộ tranh tứ bình của Tố Hữu
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Bộ tranh tứ bình kết thúc bằng bức tranh thu. Ba bức tranh trên là cảnh ngày, riêng bức tranh mùa thu này lại là cảnh đêm. Bức tranh gợi lên ánh trăng rọi qua vòm lá tạo thành một khung cảnh huyền ảo “Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Nó đã khiến ta nhớ đến một câu thơ cũng viết về đêm rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”.
Có thể thấy, hình ảnh mùa thu trên núi rừng Việt Bắc thật dịu dàng, nên thơ và trữ tình với hình ảnh ánh trăng hòa bình thể hiện sự tròn đầy và chung thủy trước sau như một của người dân nơi đây với cách mạng.
Đây đúng là khung cảnh trữ tình dành cho những cuộc hát giao duyên, cho nên nó là cảnh cuối cùng. “Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” – chữ “ai” là cách nói bóng gió, ám chỉ người đang hát cùng với mình, làm cho lời lẽ trở nên tinh tế và tinh tứ hơn. Qua tiếng hát ấy, ta cũng thấy được phẩm chất chung thủy và ân tình của người Việt Bắc. Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng. Vì thế, phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc, ta không thể quên lưu tâm đến những nét đẹp của mùa thu.
Nhận xét bài thơ khi phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc
Như vậy, bốn bức tranh tứ bình, bốn cảnh sắc với bốn dáng điệu đều mang một vẻ đẹp khác nhau của thiên nhiên và núi rừng Tây Bắc. Nhà thơ Tố Hữu đã thâu tóm được những gì là đặc trưng nhất của quê hương cách mạng. Điều thú vị hơn cả là đều hiện lên trong điệp khúc nhớ thương. Những chữ “nhớ” đứng ở đầu câu tạo nên âm hương mặn mà và da diết của nỗi nhớ. Trong nỗi nhớ ấy, tất cả đều hiện lên lung linh hơn, huyền ảo hơn.
Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển lại hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, đã làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.
Qua đoạn thơ này ta thấy tác giả Tố Hữu là người vô cùng sâu sắc, tinh tế trong ngôn ngữ cũng như trong quan sát. Ông đã khéo léo gợi lên bức tranh tứ bình thiên nhiên, con người Việt Bắc vô cùng tươi đẹp khiến người đọc ám ảnh khó quên.
Tóm lại, với 10 câu thơ ngắn gọn và súc tích, hài hòa trong câu lục tả cảnh, câu bát tả người, đã tạo nên bức tranh thời gian tuyệt đẹp đầy màu sắc. Qua đó, nhà thơ Tố Hữu cũng thể hiện được tình cảm của mình với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và sự thủy chung son sắc với những con người chất phát, hiền hòa nơi đây. Điều quan trọng hơn, qua việc phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc nói riêng hay toàn bộ bài thơ nói chung, chúng ta cần ghi nhớ công ơn to lớn của những chiến sĩ đã hi sinh và chiến đấu hết mình để chúng ta có được một đất nước hiền hòa và yên bình như hôm nay.
Xem thêm >>> Tính dân tộc trong bài Việt Bắc của Tố Hữu
Xem thêm >>> Vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Xem thêm >>> Phân tích 8 câu đầu bài Việt Bắc của tác giả Tố Hữu [Bài viết HAY NHẤT]
Hy vọng qua bài viết cảm nhận, bình giảng và phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc, bạn đã có thêm những kiến thức hữu ích. Chúc bạn luôn học tốt!
Tu khoa
- soạn bài Nhớ Việt Bắc
- cảm nhận bài việt bắc khổ 1
- bức tranh tứ bình trong bài Việt Bắc
- cảm nhận khổ 7 bài thơ việt bắc
- cảm nhận 20 câu đầu bài thơ việt bắc
- cảm nhận khổ 4 5 bài thơ việt bắc
- tình quân dân trong bài thơ việt bắc
- phân tích 24 câu đầu bài thơ việt bắc
- buc tranh tu binh trong bai viet bac to huu
- tính dân tộc qua bài Việt Bắc, Tố Hữu
- bình giảng bức tranh tứ bình trong bài Việt Bắc
- nêu cảm nhận của em về 8 câu đầu bài việt bắc
- cảm nhận về bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
- bức tranh việt bắc ra quân là một bức tranh hùng tráng
- phân tích nỗi nhớ của người cán bộ Cách mạng về xuôi đối với Việt Bắc
- việt Bắc thể hiện rất đậm đà tính dân tộc trong nghệ thuật thơ Tố Hữu
- cảm nhận tâm trạng của ta và mình trong 8 câu thơ đầu bài thơ việt bắc
- bình giảng đoạn thơ: “Mình đi, có nhớ những ngày… đậm đà lòng son”
- phân tích bức tranh tứ bình trong việt bắc của nhà thơ tố hữu