Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ [HAY NHẤT] (4 mẫu)

Or you want a quick look: Gợi ý mở đề phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi

Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ để thấy tiếng lòng thương tâm của người phụ nữ nhớ chồng đi chinh chiến. Qua việc thể hiện tâm trạng của người phụ nữ thương nhớ chồng, tác giả đã bày tỏ sự thương cảm cho số phận những người phụ nữ xưa trong xã hội phong kiến, đồng thời cũng lên án và tố cáo những cuộc chiến phi nghĩa đã khiến bao người chinh phụ héo hon tựa cửa chờ chồng. Không những thế, phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cũng giúp người đọc nhận thấy tác phẩm đã nhấn mạnh ý nghĩa cao cả của giá trị nhân văn mà khúc ngâm đã mang lại, đồng thời cũng đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của văn chương thế kỷ XVIII trong quá trình phát triển của nền văn học nước nhà. Bài viết dưới đây của DINHNGHIA.COM.VN sẽ cùng bạn phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. 

Vuidulich.vn cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:
  • Lấp Dàn ý phân tích 8 câu cuối trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
  • Cảm nhận Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
  • Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 8 câu đầu
  • dàn bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (8 câu cuối)
  • Lòng này gửi gió đông có tiện biện pháp tu từ
  • Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
  • Dàn ý cảm nhận 8 câu giữa bài Tình cảnh lẻ loi
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

https://www.youtube.com/watch?v=FCg0vKZDjGE

Nội dung chính bài viết

 
 

Gợi ý mở đề phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi

Mở bài 1: Xã hội phong kiến loạn lạc với biết bao cuộc nội chiến giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đã để lại biết bao đau thương mất mát không gì bù đắp được. Bởi thế mà văn học trong thời kỳ này đã dành biết  bao trang văn, lời thơ phản ánh bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị, đồng thời bày tỏ sự xót thương cho những nỗi khổ đau của những nạn nhân trong xã hội thối nát ấy. “Chinh phụ ngâm” của tác giả Đặng Trần Côn là một trong những tác phẩm được đánh giá cao không chỉ bởi nội dung ý nghĩa của nó mà còn ở tinh thần nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm có nhiều bản dịch, trong đó bản dịch chữ Nôm của Đoàn Thị Điểm được coi là có giá trị hơn cả. “Chinh phụ ngâm” đã vạch trần chiến tranh phong kiến phi nghĩa cũng như đề cao quyền sống và khao khát hạnh phúc của con người. Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ sẽ thấy rất rõ điều đó. 

Mở bài 2: Nhắc đến chiến tranh người ta sẽ nghĩ đến những đau buồn và tang thương. Sự đau buồn tang thương ấy không chỉ với những người ra đi để chiến đấu mà còn là những người ở lại. Đồng cảm với số phận người phụ nữ trong xã hội loạn lạc, Đặng Trần Côn đã viết nên một kiệt tác Chinh phụ ngâm. Nỗi lòng của người chinh phụ ấy được thể hiện rõ nét và xúc động nhất trong tám câu cuối trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.

“Lòng này gửi gió Đông có tiện ?

Nghìn vàng xin gửi đến non Yên

…………………….

Cảnh buồn người thiết tha lòng

Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”

Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 

Tìm hiểu những nét chính về tác giả và tác phẩm 

Đến nay vẫn chưa có nhiều ghi chép chính xác về Đặng Trần Côn, chỉ biết ông sinh vào khoảng năm 1710 mất khoảng năm 1745, sống vào thời vua Lê Trung Hưng. Đặng Trần Côn quê ở làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Sau đó, ông thi đỗ Hương cống nhưng thi hội lại hỏng. Đặng Trần Côn ra làm quan đầu tiên là huấn đạo trường phủ, tri phủ huyện Thanh Oai, Ngự sử đài đại phu.

Chinh phụ ngâm tương truyền được sáng tác vào đời vua Lê Hiển Tông. Đó là một thời đại loạn lạc, vua quan tham nhũng ăn chơi trác táng, cuộc sống của nhân dân vô cùng lầm than. Trước tình cảnh đó có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra. Triều đình phải tuyển binh lính dẹp yên quân khởi nghĩa. Chính vì triều đình bắt đi lính đã gây ra bao cảnh chia li. 

Xúc động trước tình cảnh ấy, đồng cảm cho thân phận người phụ nữ bị chia cắt bởi việc lửa binh, nên Đặng Trần Côn đã sáng tác Chinh phụ ngâm. Chinh phụ ngâm được viết bằng chữ Hán gồm 476 câu thơ. Các câu thơ được viết theo thể trường đoản cú tương đối tự do câu ngắn nhất gồm 3 chữ, câu dài nhất lên đến 13 chữ. 

Tác phẩm là lời độc thoại của người chinh phụ với nỗi niềm cô đơn quạnh quẽ khi chồng đi chinh chiến nơi biên ải xa xôi. Tác phẩm ra đời đã nhanh chóng nhận được sự quan tâm của đông đảo mọi người bởi sự xúc động, bởi tình cảm đó. Chính vì vậy, tác phẩm đã được nhiều dịch giả dịch thành chữ Nôm. Trong đó, thành công nhất có thể kể đến bản diễn Nôm được tương truyền của Đoàn Thị Điểm. 

Đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ được viết khi người chinh phụ đã tiễn chồng mình ra chiến trận. Nàng trở về ở nơi góc phòng quen thuộc nhưng không còn chàng cạnh bên. Quãng thời gian chờ đợi mỏi mòn, chờ trong vô vọng. Nhưng nàng không thể không ngóng trông.

Nỗi mong ngóng gửi lòng này cho gió đông của người chinh phụ 

Nếu ở những câu đầu là trạng thái ngóng trông, chờ đợi thì ở câu thơ này, nàng lại mong muốn nhờ gió Đông gửi nỗi lòng nàng đến với chồng nơi biên ải xa xôi.

“Lòng này gửi gió đông có tiện?

Nghìn vàng xin gửi đến non Yên”

Lòng này ý chỉ nỗi niềm nhớ thương của nàng dành cho chồng. Tuy ngắn gọn, cô đọng nhưng biết bao nhiêu nỗi niềm. Đó là nỗi nhớ thương chồng xen lẫn với nỗi lo âu cho người nơi chiến trận. Bởi lẽ “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, người ra chiến trận có mấy người trở về. Nơi chiến địa lắm hiểm nguy như một trò đánh cược sinh mạng…

Người chồng đang ở nơi xa bặt vô âm tín liệu có thể trở về sum họp cùng nàng chăng?. Và đó còn là nỗi cô đơn quạnh quẽ nơi phòng hoa. Và tấm lòng ấy của nàng không giấy bút nào có thể viết hết nên chỉ đành ký gửi điều ấy nhờ gió đông chuyển hộ. Gió đông chính là ngọn gió tốt lành mang tin vui mang sự ấm áp đến. Chính vì vậy nàng hy vọng ngọn gió ấm áp ấy có thể lắng nghe và mang nỗi niềm này đến với chồng nàng.  

Biện pháp nhân hóa hình ảnh “gió đông” khiến cho ta có cảm tưởng ngọn gió đông ấy đã trở thành người bạn tri kỉ cùng nàng chia sớt mọi nỗi niềm buồn nhớ. Câu hỏi tu từ ấy càng cho thấy nỗi niềm da diết của nàng dành cho chồng trở nên tha thiết hơn. Dường như có một sự nhún nhường ở trong hai từ “có tiện”. Gió có chấp nhận lời khấn cầu của nàng không? Nghìn vàng chính là cách nói phóng đại ẩn dụ chỉ tấm lòng của nàng quý giá như “nghìn vàng”. Non Yên chính là một vùng hẻo lánh xa xôi, gợi ra hình ảnh nơi chồng nàng đang chiến đấu. Liệu nơi xa xôi ấy chàng có được bình an. 

Không gian dường như được kéo giãn ra. Và trong không gian ấy chỉ có nỗi nhớ của nàng. Nỗi nhớ không chỉ gói gọn trong căn phòng mà còn được mở rộng ra đến tận Non Yên. Và gió sẽ bắt nhịp cầu dẫn lối cho nỗi nhớ của nàng đến với chồng. Câu hỏi của nàng như vang vọng khắp nơi và càng xoáy sâu hơn vào tâm trí của nàng lúc này.

tìm hiểu và phân tích 8 câu cuối bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ [HAY NHẤT]
Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Tâm trạng và nỗi thương nhớ đau đáu không ai có thể thấu hiểu

Nếu ở hai câu trên là mong muốn gửi gắm nỗi lòng đến chồng thì bốn câu thơ tiếp theo nỗi nhớ ấy đã hiển hiện một cách trực tiếp hơn và dường như xen lẫn vào đó còn là nỗi đau.

 “Non Yên dù chẳng tới miền

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu

Thiếp nhớ chàng đau đáu nào xong”

Địa danh Non Yên lại một lần nữa được nhắc đến. Sau đó nàng đã đưa ra một giả thuyết “dù chẳng tới miền”, ý nói dù nỗi nhớ của nàng có thể không được gửi đến nơi biên ải, có thể chồng nàng không nhận được nỗi niềm mà nàng gửi gắm cho gió đông ấy. Nhưng không sao, dù nỗi nhớ chàng không được gửi đến Non Yên thì nó vẫn đang hiển hiện trong trái tim của nàng, không vơi đi. 

Ở những câu trên nỗi nhớ chỉ xuyên qua từng lớp từ ngữ thì ở câu thơ này nỗi nhớ đã được khẳng định một cách trực tiếp rõ ràng. Dường như cảm xúc ấy đã vỡ òa không sao kìm nén được. Từ láy tượng hình “thăm thẳm” vốn được dùng để diễn tả độ sâu của cảnh vật, nhưng từ láy này lại được sử dụng để diễn tả chiều sâu và độ dài của nỗi nhớ. Nỗi nhớ trải dài dài cùng năm tháng mở rộng khắp không gian và nỗi nhớ càng xoáy sâu vào tâm can người chinh phụ. Nỗi nhớ chính là biểu hiện cao nhất của tình yêu. Trong những ngày tháng cô đơn, nàng không nuối tiếc hay uất hận vì chồng ra đi miền chiến trận mà nàng chỉ nghĩ cho chồng. 

READ  Ước và bội của một số tự nhiên là gì? Ước chung lớn nhất, Bội chung nhỏ nhất là gì?

Vợ chồng chưa vui sum vầy được bao lâu, lửa tình yêu vẫn còn nồng ấm vậy mà giờ đây chỉ còn một mình nàng nơi căn phòng lạnh lẽo. Nỗi nhớ vốn là một khái niệm trừu tượng nhưng thông qua hình ảnh “đường lên bằng trời” ấy đã phần nào cụ thể hóa nỗi nhớ của nàng, khiến cho nỗi nhớ như có hình có khối có thể cảm nhận được một cách rõ ràng. 

Và vì cảm nhận càng rõ ràng thì càng đau khổ hơn. Đường lên trời vốn dài và xa đi cả đời của cũng đến – một không gian mênh mông, rộng lớn. Nỗi nhớ được so sánh với con đường lên trời cho thấy nỗi nhớ của nàng vô cùng rộng lớn không sao có thể xoa dịu, không sao có thể giãi bày được nên nỗi nhớ ấy như chất chồng ngày càng dồn lại. Ta nghe có chút xót xa ai oán trong câu thơ “trời thăm thẳm xa vời khôn thấu”. Trời cao quá, xa quá liệu có thấu hiểu cho nỗi lòng của làng. Hình ảnh ấy gợi ta liên tưởng đến liệu vua quan trong triều đình sống giữa nơi cung điện xa hoa kia có hiểu cho nỗi lòng của những người vợ xa chồng của những gia đình bị li tán bởi chiến tranh. Nỗi lòng ấy nàng không thể giãi bày với ai, không thể chuyển lời đến người chồng ở nơi phương xa và cũng chẳng có cách thoát khỏi nỗi niềm này. 

Người chinh phụ dường như chìm ngập trong nỗi nhớ như một sự ám ảnh. Nỗi nhớ chồng được thể hiện đầy xúc động qua từ láy “đau đáu”. Trong từ láy này, ta bắt gặp dường như không chỉ là nỗi nhớ mà còn là sự lo lắng. Lo lắng cho sinh mạng của chồng, lo lắng cho tương lai của đôi ta, và còn lo lắng cả cho cuộc đời mình. Bởi thanh xuân của người phụ nữ thì ngắn ngủi, độ tuổi xuân sắc cũng chỉ có hạn mà thôi…

Nỗi nhớ thương cộng với thời gian đã làm phai nhòa đi nhan sắc của nàng. Mọi thứ dần mờ ảo nhưng nỗi nhớ chàng lại hiển hiện rõ ràng không nguôi giây phút nào. Chờ chàng, thậm chí chỉ cần một tin tức nhỏ về chàng cũng đã đủ làm yên lòng người chinh phụ. Nhưng đáp lại nỗi lòng ấy chỉ có sự yên ắng đến đáng sợ của không gian, trong sự kéo dài lê thê của thời gian. Tuổi xuân tươi đẹp qua đi, hạnh phúc bên chồng bỗng trở thành một ước mơ quá đỗi mong manh… Nỗi nhớ ấy đã trở thành một nỗi ám ảnh bủa vây lấy nàng. Người chinh phụ hiện ra nhỏ bé, cô đơn đến tội nghiệp…

Nỗi niềm người chinh phụ hòa cùng cảnh vật không gian thời gian 

“Cảnh buồn người thiết tha lòng,

Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”

Câu thơ được tách thành hai vế “cảnh buồn” và “người thiết tha lòng” và giữ hai vế không có liên từ tạo cho người đọc không gian để suy tưởng. Cảnh buồn khiến cho lòng người trở nên da diết hay chính nỗi buồn của lòng người thấm xuyên vào cảnh vật?. Hay có thể là cả hai, hai nỗi buồn ấy cùng cộng hưởng vào nhau tạo thành một buổi hòa ca của nỗi buồn. Điều này làm ta liên tưởng đến hai câu thơ tuyệt bút của Nguyễn Du khi diễn tả tâm trạng của Kiều.

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

“Sương đượm” trên cành cây hay như giọt nước mắt đang đượm trên khóe mắt của người chinh phụ trong nỗi thương nhớ khôn nguôi? Âm thanh vang lên, nhưng đó là “tiếng trùng” của những âm thanh rất nhỏ. Trong đêm tối ấy, tiếng trùng vang lên không khiến không gian bớt đi sự đìu hiu mà ngược lại càng tô đậm thêm sự im lặng của không gian. Không gian phải tịch mịch thế nào thì mới có thể nghe thấy những âm thanh nhỏ vang vọng lại như tiếng trùng. Đây chính là bút pháp lấy động tả tĩnh quen thuộc của văn học trung đại. Tâm hồn người chinh phụ dường như cũng đang xao động bởi nỗi nhớ chứ nó không còn là một mặt hồ yên bình. Kết lại đoạn thơ là một hình ảnh tả cảnh vật nhưng qua đó ta cũng cảm nhận được nỗi niềm của người chinh phụ.

Đánh giá tác phẩm khi phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi

Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ nói chung, cũng như cảm nhận 8 câu cuối của trích đoạn nói riêng, ta thấy rằng bản dịch đã truyền tải thành công nỗi niềm của người chinh phụ trong những ngày tháng cô đơn chờ chồng trong mỏi mòn tuyệt vọng. Thể thơ song thất lục bát đậm tính dân tộc được sử dụng nhuẫn nhuyễn cũng góp phần vào thành công của tác phẩm. Hình ảnh mang tính ước lệ kết hợp với các bút pháp tả cảnh ngụ tình, lấy động tả tĩnh quy chuẩn của văn học trung đại đã góp phần diễn tả được nỗi nhớ vơi đầy của nàng. Đoạn thơ không chỉ là sự đồng cảm cho thân phận người phụ nữ trong chiến tranh mà đó là tiếng nói gián tiếp tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã chia cắt làm lỡ làng tuổi xuân của biết bao người phụ nữ, cướp đi hạnh phúc gia đình.

Gợi ý kết đề phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi 

Kết bài 1: Chỉ với tám dòng thơ ngắn ngủi nhưng đã dồn nén bao nhiêu cảm xúc. Đọc mỗi vần thơ ta có cảm tưởng như người chinh phụ ấy đang giãi bày nỗi lòng này với mọi người mong tìm được sự thấu hiểu. Có lẽ vì thế mà dù đã cách ta hằng thế kỷ nhưng tác phẩm vẫn mãi sống trong lòng người đọc không phai nhòa.

Kết bài 2: Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã thể hiện một cách rõ nét nỗi thương nhớ da diết đau đáu của người phụ nữ có chồng nơi chiến trận. Bên cạnh đó trích đoạn cũng đồng thời cho thấy mong ước về hạnh phúc gia đình, những ước mơ nhỏ nhoi đời thường của biết bao người phụ nữ xưa trong xã hội loạn lạc với những cuộc chiến phi nghĩa. Với cách sử dụng những hình ảnh giàu tính ước lệ cùng với những cảm xúc dồn nén, tác phẩm đã hiện thức hóa một cách sinh động bóng hình người phụ nữ xưa tựa cửa mong ngóng chồng phương xa. Qua đó, tác phẩm cũng tố cáo chiến tranh phi nghĩa là minh chứng cho cảm hứng nhân đạo sâu sắc.   

Dàn ý phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 

Để giúp bạn nắm được những nét chính trong bài viết cũng như ý nghĩa và nội dung của tác phẩm Chinh phụ ngâm, DINHNGHIA.COM.VN sẽ giúp bạn lập dàn ý phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. 

Mở bài phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

  • Giới thiệu sơ lược và những nét nổi vật về tác giả Đặng Trần Côn và tên người dịch Đoàn Thị Điểm.
  • Nêu hoàn cảnh ra đời của Chinh phụ ngâm cũng là hoàn cảnh ra đời của trích đoạn Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. 
  • Giới thiệu dẫn dắt vào bài, cũng có thể đi từ cảm hứng chiến tranh trong xã hội phong kiến.

Thân bài phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

  • Nêu bật những nét chính về tác giả, người dịch cùng trích đoạn được học.
  • Những nỗi mong ngóng tựa cửa của người chinh phụ với người chồng nơi xa.
  • Nỗi nhớ thương da diết cùng tâm trạng đau đáu không ai thấu hiểu của người chinh phụ. 
  • Nỗi niềm của người chinh phụ cùng với sự hòa quyện vào cảnh vật thời gian không gian.

Kết bài phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 

Có thể thấy, phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, ta thấy bóng dáng của người phụ nữ tựa cửa chờ chồng chẳng khác nào hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại xưa. Trên đây là những tìm hiểu và phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi, hy vọng đã cung cấp cho bạn những kiến thức hữu ích trong quá trình học tập. Nếu có bất cứ băn khoăn hay câu hỏi gì liên quan đến chủ đề phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, đừng quên để lại ở nhận xét bên dưới để giáo viên của chúng tôi trao đổi cùng bạn nhé. Chúc bạn luôn học tốt!. 

Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ - Mẫu 1

Cuộc nội chiến giữa các tập đoàn phong kiến ở nước ta cuối thế khỉ XVIII đi qua để lại những đau thương mất mát không gì bù đắp được. Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chất tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ thối nát ấy. Tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Nhiều bản dịch xuất hiện, trong đó bản dịch sang chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm được coi là hoàn hảo hơn cả. Tác phẩm phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là đề cao quyền sống cùng khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người. Đoạn trích dưới đây là một trong những đoạn tiêu biểu của bản ngâm khúc: Khi phân tích 16 câu đầu đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, ta thấy người chinh phụ một mình trong căn phòng quạnh vắng với tâm trạng cô đơn, lẻ loi, nỗi trống trải trong lòng thì đến 8 câu cuối, nỗi nhớ và nỗi khát khao hạnh phúc lứa đôi bỗng trào dâng trong lòng và trở nên khắc khoải hơn bao giờ hết. Mượn gió đông để gửi yêu thương cho chồng. Đó là ước muốn, là khát khao được biết tin tức về chồng mình: “Lòng này gửi gió đông có tiện? Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.” Tác giả sử dụng câu hỏi tu từ, kết hợp với điển cố (non Yên) để diễn tả nỗi nhớ của nhân vật. “Lòng này” là sự thương nhớ khôn nguôi, vì đã trải qua nhiều đợi chờ. Gió đông là gió mùa xuân. Trong cô đơn, người chinh phụ chỉ biết hỏi gió, nhờ gió đưa tin tới người chồng yêu thương nơi chiến địa xa xôi, nguy hiểm, nơi non Yên nghìn trùng. Non Yên, một địa danh cách xa Thiểm Tây, Trung Quốc hơn hai ngàn dặm về phía Bắc, nơi chiến trận đầy gian khổ. Nàng hỏi gió, nhờ gió nhưng ”có tiện” hay không? Nàng mong gió hãy mang nỗi nhớ của nàng nói với người chồng ngoài biên cương. Sự cô đơn trong lòng người chinh phụ ngày càng khắc khoải. Làm sao tới được non Yên, nơi người chồng đang “nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh”? Cùng với những từ ngữ trang trọng “gửi nghìn vàng", "xin” đã giúp người đọc thấy được không gian, nỗi nhớ được mở ra thật mênh mông, vô tận, khắc sâu nỗi cô đơn, hiu quạnh. Thế nhưng hiện thực thật phũ phàng, đau xót:
READ  Việt vị là gì? Quy định về luật việt vị của FIFA
“Non Yên dù chẳng tới miền Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời” Việc sử dụng từ láy "thăm thẳm" đã nói lên được nỗi nhớ da diết của người chinh phụ. Nỗi nhớ thương ấy đè nặng trong lòng, triền miên theo thời gian, “đằng đẵng” không thể nguôi ngoai. Nỗi nhớ ấy được cụ thể hóa bằng độ dài của không gian “đường lên bằng trời”. Có thể nói, dịch giả Đoàn Thị Điểm đã có một cách nói rất sâu sắc để cực tả nỗi nhớ thương chồng của người chinh phụ. Nỗi nhớ thương ấy, tiếng lòng thiết tha ấy lại được diễn tả qua âm điệu triền miên của vần thơ song thất lục bát với thủ pháp nghệ thuật liên hoàn - điệp ngữ. Cả một trời thương nhớ mênh mông. Nỗi buồn triền miên, dằng dặc vô tận. Sau khi hỏi “gió đông” để bày tỏ niềm thương nỗi nhớ chồng, cuối cùng đọng lại trong nàng là nỗi đau, sự tủi thân: “Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu, Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong” Ý của câu như muốn nói lên sự xa cách nghìn trùng, với biển trời rộng lớn, xa “thăm thẳm” không hiểu cho “nỗi nhớ chàng” của người vợ trẻ. Nỗi nhớ “đau đáu” trong lòng. Đau đáu nghĩa là áy náy, lo lắng, day dứt khôn nguôi. Có thể nói qua cặp từ láy: "đằng đẵng” và “đau đáu”, dịch giả đã thành công trong việc miêu tả những thương nhớ, đau buồn, lo lắng của người chinh phụ một cách cụ thể, tinh tế, sống động. Tâm trạng ấy được miêu tả trong quá trình phát triển mang tính bi kịch đáng thương. Ở hai câu cuối, nhà thơ lấy ngoại cảnh để thể hiện tâm cảnh: “Cảnh buồn người thiết tha lòng, Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.” Giống như tâm sự Thúy Kiều trong Truyện Kiều: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”, người chinh phụ có lúc thấy cảnh vật vô hồn, thê lương nhưng có khi lại cảm nhận cả khoảng không gian và cảnh vật như đang hối thúc, giục giã, đổi thay, không tìm thấy đâu sự hô ứng, đồng cảm giữa tình người với thiên nhiên. Niềm thương nỗi nhớ cứ kéo dài từ ngày này sang ngày nọ. Nhìn cành cây ướt đẫm sương đêm mà lòng nàng lạnh lẽo. Nghe tiếng trùng kêu rả rích thâu canh như tiếng đẫm sương đêm mà thêm nhói lòng, buồn nhớ. Âm thanh ấy, cảnh sắc ấy vừa lạnh lẽo vừa buồn, càng khơi gợi trong lòng người vợ trẻ, cô đơn biết bao thương nhớ, lo lắng, buồn rầu. Bằng những hình ảnh ẩn dụ cho nỗi buồn chất chứa, sự mòn héo của cảnh vật, tám câu thơ cuối đã diễn tả nỗi nhớ da diết, nhớ tới thầm đau của người chinh phụ. Nỗi đau được chuyển từ lòng người sang cảnh vật. Hàng loạt những hình ảnh ẩn dụ, từ ngữ gợi tả lại càng xoáy mạnh vào nỗi đau trong lòng người chinh phụ. Qua đó người đọc cũng cảm nhận được một cách sâu sắc niềm thương cảm, thấu hiểu của tác giả đối với nỗi đau của người phụ nữ có chồng ra trận. Với thể thơ song thất lục bát, cách dùng từ, hình ảnh ước lệ, điệp từ điệp ngữ, nghệ thuật miêu tả nội tâm, đoạn thơ đã thể hiện một cách tinh tế những cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi cô đơn buồn khổ ở nàng khao khát được sống trong hạnh phúc, tình yêu lứa đôi. Đoạn trích còn thể hiện tấm lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc của tác giả với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, cất lên tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phi nghĩa. Đoạn trích cũng như toàn tác phẩm "Chinh phụ ngâm" là tiếng kêu thương tâm của người phụ nữ nhớ chồng nơi chinh chiến. Trạng thái tình cảm của người chinh phụ một mặt có ý nghĩa tố cáo những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã đẩy bao nhiêu người trai ra trận để biết bao chinh phụ héo hon tựa cửa chờ chồng, mặt khác lên tiếng nói tình cảm và sự ý thức về quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ ngay giữa cuộc đời trần thế này. Tác phẩm đã khẳng định những giá trị nhân văn cao cả mà khúc ngâm đã đem lại, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của giai đoạn văn chương thế kỷ XVIII trong quá trình phát triển của nền văn học dân tộc.

Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ - Mẫu 2

Nhắc đến Đặng Trần Côn ta thường nhớ đến ông là một nhà thơ sống vào đầu thế kỉ XVIII, mặt khác tên tuổi của ông còn gắn liền với tác phẩm nổi tiếng “Chinh phụ ngâm”. Trong đó 8 câu cuối của đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" đã thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của toàn bộ tác phẩm qua việc thể hiện khát khao về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ trong thời chiến loạn. “Lòng này gửi gió Đông có tiện ? Nghìn vàng xin gửi đền non Yên Non Yên dù chẳng tới miền Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời Trời thăm thẳm xa với khôn thấu Thiếp nhớ chàng đau đáu nào xong Cảnh buồn người thiết tha lòng Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun” Nhớ hình bóng của người chồng, người chinh phụ thổn thức hướng cái nhìn nội tâm về miền biên ải xa xôi. Nếu như ở khổ trước người chinh phụ càng cảm thấy cô đơn buồn sầu tới bao nhiêu thì ở 8 câu này nỗi nhớ nhung của người chinh phụ lại càng tăng lên bấy nhiêu cùng với sự thương nhớ ấy là tâm trạng lo lắng cho số phận của người chồng nơi biên ải. Trạng thái lo lắng của người chinh phụ được tác giả thể hiện như một mạch ngầm dù người chinh phụ không nói ra nhưng ta vẫn cảm nhận được, thể hiện sự tinh tế trong miêu tả nội tâm của tác giả. Đầu tiên tác giả đã nhân hoá gió đông như một người đưa tin đến non Yên nhằm nhấn mạnh nỗi mong nhớ lo lắng của người chinh phụ về người chồng: Lòng này gửi gió đông có tiện? Nghìn vàng xin gửi đến non Yên Vì quá thương nhớ chồng mà người vợ phải nhún nhường xin hỏi ngọn gió để gửi tin cho chồng mình, phải nói đó là một người đưa tin đặc biệt, đưa một cái tin đặc biệt đó là cái tin về tình cảm yêu thương nhung nhớ của người vợ dành cho người chồng nơi chinh chiến. Ngoài ra cái tin ấy được đưa đến ”non Yên” - một vùng hẻo lánh xa xôi nơi người chồng đang xông pha trận mạc, khốn nguy vô cùng. Qua việc dùng bút pháp nhân hoá, hình ảnh ước lệ “non Yên”, “gió Đông”, câu hỏi tu từ tác giả mở ra không gian mênh mông gợi thêm nỗi trống trải, cô đơn cho cảnh vật từ đó xoáy sâu vào sự nhớ nhung khắc khoải, da diết của người chinh phụ. Nỗi nhớ đằng đẵng ấy làm nàng mòn mỏi cuối cùng được nâng lên thành nỗi đau, một nỗi đau vô hình đã được tác giả tạo hình hài qua 4 câu: Non Yên dù chẳng tới miền Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu Thiếp nhớ chàng đau đáu nào xong Cùng với nỗi nhớ thương mong đợi, từ “đằng đẵng” gợi cảm giác triền miên liên tục tưởng kéo dài đến vô tận nên được tác giả hình dung bằng sự so sánh với đường lên trời. Nỗi nhớ của người chinh phụ đằng đẵng, miệt mài, không thể nguôi ngoai và không thể dùng toán học mà cân đếm được. Nhưng trớ trêu thay khoảng cách giữa nàng và người chồng dường như khó chạm tới được, sự xa cách nghìn trùng mây. Bằng việc mở rộng không gian, ”trời thăm thẳm xa vời khôn thấu” như là lời than thở, ai oán thể hiện sự tuyệt vong của người chinh phụ sau nhiều ngày tháng mòn mỏi đợi tin chồng và chính từ đó nỗi đau xuất hiện, từ “đau đáu” biểu lộ sắc thái tăng tiến, sự dồn nén cảm xúc thành nỗi xót xa đắng cay nối dài bất tận trong lòng người chinh phụ. Giống như tâm sự Thúy Kiều trong Truyện Kiều: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”, người chinh phụ thấy cảnh vật vô hồn, thê lương như tâm trạng của mình lúc bấy giờ: Cảnh buồn người thiết tha lòng, Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun. Đó là mối quan hệ giữa con người và tâm cảnh, người vui thì tâm trạng vui thấm vào cảnh vật nhìn đâu cũng thấy toàn niềm vui chất chứa sự sống. Còn người buồn thì nỗi buồn thấm vào tâm can nên nhìn cảnh vật thấy sầu não, thê lương. Ở đây hình ảnh “cành cây sương đượm”, "tiếng trùng”, ”mưa phun” là hình ảnh ẩn dụ cho nỗi buồn chất chứa sâu lắng của người chinh phụ, sự mòn héo của cảnh vật hay do lòng người mòn héo mà ra. Tác giả đã sử dụng điêu luyện thể thơ song thất lục bát, phối hợp các hình ảnh ước lệ “non yên”, ”gió Đông”, với hình ảnh ẩn dụ “sương đượm”, ”mưa phun”, đặc biệt là sự thành công trong bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật, tả cảnh ngụ tình tác giả đã đưa người đọc qua các cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ trình một cách tự nhiên nhất và thể hiện ước mơ khát vọng chính đáng của họ về tình yêu và hạnh phúc. Với cách dùng từ hình ảnh ước lệ, đoạn thơ đã thể hiện một cách tinh tế khát khao về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ. Đồng thời thể hiện sự thương cảm sâu sắc của tác giả với ước mơ chính đáng của người phụ nữ cũng là lời tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa là biểu hiện của cảm hứng nhân văn cho toàn đoạn trích. Xem thêm: Phân tích tâm trạng của người chinh phụ trong Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ - Mẫu 3

Chinh Phụ Ngâm là khúc ngâm não lòng mà cũng thấm đẫm cảm xúc nhất trong văn đàn văn học Việt Nam, đặc biệt 8 câu thơ cuối chính là sự dồn nén của dòng cảm xúc nhớ thương, khắc khoải vò võ ở những câu thơ đầu để càng trở nên da diết. “Lòng này gửi gió đông có tiện? Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.” Lòng này là sự cụ thể hóa nỗi nhớ và niềm thương mà người chinh phụ đang giam cầm trong lòng mình, nó cứ mãi khắc khoải và trở trăn trong lòng nhân vật trữ tình, nỗi lòng ấy bao trùm thậm chí nhấn chìm cả không gian thời gian, nhưng người chinh phụ tội nghiệp ấy còn biết làm gì khác hơn ngoài nhớ thương. Vậy nên, trong cô đơn, người chinh phụ chỉ biết hỏi gió, nhờ gió đưa tin tới người chồng yêu thương nơi chiến địa xa xôi, nguy hiểm, nơi non Yên nghìn trùng. Nàng mong gió sẽ mang nỗi nhớ, mang những đợi chờ và tin yêu của nàng gửi đến người chồng ở phương xa, đang phải đối mặt với nguy hiểm muôn vàn. Nhưng tiếc thay, nơi tấm chân tình ấy gửi đến lại quá đỗi xa xôi, nên người chinh phụ tự hỏi liệu nó có thể tới được nơi, liệu nó có thể chạm thấu đến nỗi lòng người chinh phụ, các cụm từ chỉ thời gian thăm thẳm xa xăm, cùng các cảm thán từ van xin khẩn thiết càng gợi sự chua xót hơn bao giờ hết:
READ  Selling Point là gì và cấu trúc cụm từ Selling Point trong câu Tiếng Anh vuidulich.vn
“Non Yên dù chẳng tới miền Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời” Từ láy thăm thẳm như làm đầy, làm sâu, làm trầm hơn cung bậc nỗi nhớ, và càng nhấn mạnh rằng, nỗi nhớ của người chinh phụ da diết, khắc khoải thậm chí giằng xé nhường nào được so sánh cả với đường lên tới trời. Vừa là cảm xúc, vừa gợi sự mơ hồ, vô định của xúc cảm bởi tâm tưởng đang bao quanh, đang chập chờn trong cơn mê và nỗi nhớ thương. Sau khi hỏi gió đông để bày tỏ phần nào niềm mong mỏi và nỗi tủi hờn, người chinh phụ đành ngậm ngùi chốt lại trong câu độc thoại với bản thân: “Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu, Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong” Cảnh buồn người thiết tha lòng, Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun". Niềm thương, nỗi nhớ bao trùm, lấn chiếm cả không gian thời gian, và nhuốm màu tâm trạng vào cảnh vật. Tiếng mưa ướt lạnh, và sự vận động cô quạnh của cảnh vật một lần nữa được dịch giả Đoàn Thị Điểm khắc họa trọn vẹn, chân thực, sống động. Các từ láy đau đáu, thăm thẳm, thiết tha như những lớp sóng ngôn từ, lớp sóng lòng làm dày thêm, đậm thêm, sầu muộn thêm nỗi nhớ và tình cảnh người chinh phụ. Bằng những hình ảnh ẩn dụ ấn tượng, không chỉ mang linh hồn của cảnh vật, mà còn mang trong nó tâm trạng của nhân vật người chinh phụ, đã diễn tả xuất sắc những khoảnh khắc tâm lý buồn thương da diết khôn thấu của người chinh phụ, từ đó mở ra những dư ba trong tâm hồn người cảm nhận. Xem thêm: Cảm nhận đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ - Mẫu 4

Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ được trích trong tác phẩm Chinh phụ ngâm của tác giả Đặng Trần Côn và dịch giả Đoàn Thị Điểm. Tác phẩm này ra đời nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Nhiều bản dịch đã xuất hiện, trong đó bản dịch chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm được cho rằng hoàn hảo hơn cả. Tác phẩm đã phản ánh chân thực bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ phong kiến thối nát. Đặc biệt, Phân tích 8 câu cuối tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cho thấy tác giả đã đi sâu vào miêu tả tình cảnh éo le của người phụ nữ phải sống trong cô đơn, buồn khổ, trong thời gian đợi chồng đi đánh giặc trở về. 8 câu thơ cuối thể hiện nỗi nhớ và khát khao lứa đôi bỗng trào dâng trong lòng người chinh phụ và trở nên khắc khoải hơn bao giờ hết. Bài thơ được ra đời trong đầu đời vua Lê Hiển Tông. Đó là thời đại loạn lạc, triều đình ăn chơi trác táng, tham nhũng, cuộc sống người dân vô cùng lầm than, rất nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi. Triều đình phải tuyển binh lính dẹp yên quân khởi nghĩa, nên đã gây ra nhiều cảnh chia ly gia đình. Chứng kiến những điều đau đớn ấy, Đặng Trần Côn đã sáng tác bài thơ, bày tỏ sự đồng cảm cho than phận người phụ nữ khi phải tiễn chồng ra trận, mong ngóng tin tức sống chết của chồng trong vô vọng. Chinh phụ ngâm được viết bằng chữ Hán gồm 476 câu thơ. Tác phẩm là lời độc thoại của người chinh phụ khi đối diện với sự cô đơn quạnh quẽ khi chồng đi chinh chiến ngoài biên ải xa xôi. Nếu 16 câu đầu miêu tả tâm trạng lẻ loi, cô đơn, trống trải của người chinh phụ, thì 8 câu thơ cuối lại lột tả nỗi nhớ, khát khao được biết tin chồng mình của chinh phụ. Lòng này gửi gió Đông có tiện ? Nghìn vàng xin gửi đến non Yên Hai câu thơ đầu, tác giả đã nhân hóa gió Đông như một người đưa tin đến non Yên nhằm nhấn mạnh nỗi mong nhớ lo lắng của người chinh phụ về người chồng. Vì quá nhớ nhung nên người vợ xin ngọn gió gửi nỗi lòng của mình đến non Yên – vùng hẻo lánh xa xôi, nơi người chồng đang xông pha trận mạc, nguy hiểm vô cùng. Tác giả dung bút pháp nhân hóa, hình ảnh ước lệ “gió Đông”, “non Yên” và câu hỏi tu từ “Lòng này gửi gió Đông có tiện?” đã mở ra không gian mênh mông, hiu quạnh, diễn ra sự trống trải, cô đơn của cảnh vật, càng khiến người đọc ám ảnh hơn về sự khắc khoải, da diết của người chinh phụ. “Gió Đông” còn thể hiện sự ấm áp, sự sống, báo tin vui của sự đoàn viên, sum họp.Phải chăng, người chinh phụ đang ao ước về sự đoàn tụ, khát khao được biết tin về chồng mình nơi biên cương. Ở đây, tác giả dung từ “nghìn vàng” là hình ảnh ẩn dụ cho tấm lòng của người chinh phụ. Buồn tủi, cô đơn, lo lắng, trống vắng, hy vọng rồi lại thất vọng khi trông ngóng tin tức của chồng. Hai câu thơ đầu còn bày tỏ tình cảm, tình yêu thương, lòng thủy chung son sắt của người vợ nơi quê nhà đối với chồng mình. Non Yên dù chẳng tới miền Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu Thiếp nhớ chàng đau đáu nào xong Dù gửi tấm lòng, nhớ nhung cho gió Đông, nhưng thực tế thật phũ phàng, đau xót khi “Non Yên chẳng tới miền” nên thành nỗi đau vô hình “thăm thẳm đường lên bằng trời”. Nỗi nhớ của người chinh phụ triền miên, kéo dài đến vô tận, được so sánh với đường lên trời. Nỗi nhớ ấy không thể nguôi nguôi và không thể đo đếm được. Khoảng cách giữa người chinh phụ với người chồng “thăm thẳm xa vời khôn thấu”, chẳng thể chạm tới được, nghìn trùng mây, chẳng ai thấu, chẳng thể giãi bày cùng ai, cũng không thể chuyển đến người chồng của mình nơi phương xa. Nỗi nhớ của người chinh phụ trở thành “đau đáu”, như bị dồn nén cảm xúc thành nỗi xót xa cay đắng bất tận trong lòng. Cách miêu tả của tác giả khiến người đọc cảm nhận được không gian mênh mông, da diết, giống như lời than thở, ai oán, trách cứ thể hiện sự tuyệt vọng của người chinh phụ ngày ngày mòn mỏi đợi tin chồng. Những từ láy “thăm thẳm”, “đau đáu” được sử dụng đắt giá để miêu tả cung bậc của nỗi nhớ người chinh phụ càng tăng dần đến vô tận, xót xa, đau đớn đến bi kịch đáng thương. “Đau đáu” còn hàm ý về sự lo lắng. Người chinh phụ lo lắng cho chồng, cho tương lai của hai vợ chồng và cả cuộc đời của mình khi chồng đi biền biệt chẳng biết tin tức gì. Cảnh buồn người thiết tha lòng Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun Ở đây, câu thơ được tách thành hai vế “cảnh buồn” và “người thiết tha lòng” mà không có liên từ, nhấn mạnh hai nghĩa: cảnh buồn khiến cho long người da diết hay nỗi buồn của lòng người thấm vào cảnh vật? Hay cảnh vật và con người cùng hòa vào, cộng hưởng để tạo nên một bản hòa ca của nỗi buồn khó thấu? Giống như trong câu thơ của Nguyễn Du: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh và người đều gặp nhau ở nỗi buồn và niềm đau. Cảnh vốn vô tri nhưng tâm trạng của con người đã nhuốm sầu cảnh vật. “Cành cây sương đượm” gợi lên sự buốt giá, lạnh lẽo; “tiếng trùng mưa phun” gợi đến sự ảo não,hoang vắng đến nỗi nghe thấy cả tiếng côn trùng kêu rả rích trong đêm. Tâm trạng của người chinh phụ cô đơn, thổn thức, xen lẫn nỗi nhớ thương, khát khao được đồng cảm nhưng vô vọng. Người chinh phụ hướng nỗi buồn ra ngoài cảnh vật khiến cảnh vật cũng trở nên não nề. Hình ảnh ẩn dụ “cành cây sương đượm”, “tiếng trùng”, “mưa phun” cho nỗi buồn chất chứa, sự cô đơn, héo mòn của người chinh phụ. Tác giả đã khéo léo sử dụng thể thơ song thất lục bát, hình ảnh ước lệ, ẩn dụ, và thành công trong việc miêu tả diễn biến tâm lý của nhân vật, tả cảnh ngụ tình. Điều này đã đưa người đọc trải qua các cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình một cách tự nhiên nhất. Với cách dùng những từ ước lệ, đoạn thơ đã thể hiện một cách tinh tế khát khao về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ, đồng thời thể hiện niềm thương cảm của tác giả đối với người phụ nữ thời phong kiến nói chung. Đoạn trích cũng bày tỏ sự phản đối, tố cáo chiến tranh phong kiến khiến cho vợ chồng phải chia ly. Qua tám câu cuối trong bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ dù ngắn nhưng đã chất chứa bao cảm xúc dồn nén của người chinh phụ. Mỗi câu thơ đều khiến người đọc cảm thấy đang lắng nghe người chinh phụ giãi bày tâm trạng cô đơn, đau đớn, và bày tỏ nỗi nhớ chồng nơi biên cương xa xôi. Thông qua 8 câu thơ, tác giả còn nói hộ những khao khát, mơ ước giản dị, nhỏ nhoi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến – ước mong một hạnh phúc gia đình, được đoàn tụ, được yêu thương. Đồng thời, ông cũng lên tiếng phản đối chiến tranh phong kiến, cuộc chiến phi nghĩa khiến xã hội loạn lạc, gia đình chia cắt.

Xem thêm:

Vuidulich.vn cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:
  • Kết bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
  • Lấp Dàn ý phân tích 8 câu cuối trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
  • Cảm nhận Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
  • Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 8 câu đầu
  • dàn bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (8 câu cuối)
  • Lòng này gửi gió đông có tiện biện pháp tu từ
  • Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
  • Dàn ý cảm nhận 8 câu giữa bài Tình cảnh lẻ loi
See more articles in the category: wiki

Leave a Reply