Cùng Phượt - Kinh đô Huế là thủ đô của quốc gia Việt Nam thống nhất từ năm 1802, sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế mở đầu cho nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Huế kết thúc sứ mệnh là thủ đô Việt Nam vào năm 1945 khi vị hoàng đế cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại thoái vị. Kể từ đó thủ đô Việt Nam một lần nữa lại được chọn là Hà Nội, Kinh đô Huế xưa trở thành Cố đô. Huế là thành phố nằm ven biển Đông, là thành phố miền Trung nằm giữa hai thành phố lớn Hà Nội và Sài Gòn. Hai tỉnh láng giềng của Huế là Quảng Trị và Đà Nẵng. Đèo Hải Vân nối liền Huế với Đà Nẵng và ranh giới thời tiết hai miền. Cùng Phượt tổng hợp những kinh nghiệm du lịch Huế cùng những thông tin về khách sạn nhà nghỉ tại Huế, địa điểm ăn uống, các món ăn ngon tại Huế, các địa danh du lịch tại Huế để các bạn tham khảo.
Giới thiệu chung về Huế
Thành phố Huế năm 1968 (Ảnh - manhhai)Huế là thành phố tỉnh lỵ của Thừa Thiên Huế, mảnh đất duyên hải miền Trung. Huế có thể coi là vùng đất giao thoa của hai kiểu khí hậu nhiệt đới miền Nam và ôn đới của miền Bắc. Thừa Thiên Huế, Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế là vùng đất có lịch sử lâu đời. Những phát hiện khảo cổ học gần đây cho thấy rõ dấu vết của người xưa trên mảnh đất này. Những di vật như rìu đá, đồ gốm được tìm thấy ở Phụ Ổ, Bàu Ðưng (Hương Chữ, Hương Trà) cho phép khẳng định đây là các di tích có niên đại cách đây trên dưới 4.000 năm.
Vùng đất này từng là kinh đô của Việt Nam thời phong kiến dưới triều Tây Sơn và nhà Nguyễn. Hiện nay đây là một trong những trung tâm về văn hóa, du lịch, y tế, giáo dục đào tạo của vùng Miền Trung. Huế cũng là một trong những vùng có nhiều di sản văn hoá. Ðến nay, không còn một vùng nào có số lượng lớn các di tích mà những di tích này vẫn giữ được hình dạng vốn có của nó như ở cố đô này.
Thành phố Huế ngày nay (Ảnh - vuidulich.vn)Huế đồng thời còn là một trung tâm quan trọng của Ðạo Phật. Ở Huế và những vùng lân cận vẫn còn tồn tại hàng chục chùa đã được xây dựng cách đây trên 300 năm và hàng trăm đền, chùa được xây dựng đầu thế kỷ. Ngoài ra, Huế còn được xem như là nơi bắt nguồn của nhạc cung đình và là nơi có nhiều món ăn truyền thống nổi tiếng cùng các nghề thủ công tinh xảo.
Là thành phố duy nhất trong nước vẫn còn giữ được dáng vẻ của một thành phố thời Trung cổ và nguyên vẹn kiến trúc của một nền quân chủ. Huế đã trở thành một bảo tàng lớn và vô giá. Chính vì vậy, chính phủ đã xếp hạng các di tích ở cố đô Huế như là một tài sản vô cùng quí giá và tháng 12 năm 1993 Huế đã được UNESCO xếp hạng là di tích văn hóa thế giới.
Nên đi du lịch Huế vào thời điểm nào
Nếu thích trải nghiệm các bãi biển ở Huế, nhớ đến đây vào mùa nóng nhé (Ảnh - helenrius88)Nếu khí hậu của cả nước đều chia thành hai mùa khô và mưa thì Huế lại chỉ có 2 mùa khác là mùa mưa và mùa ít mưa. Mùa mưa kéo dài từ tháng 9 tới cuối tháng 12, mùa ít mưa kéo dài từ cuối tháng 12 cho đến khoảng tháng 4. Những tháng còn lại thời tiết Huế khả nắng do Huế cũng nằm trong vùng bức xạ nhiệt dồi dào và nền nhiệt cao. Du khách đến Huế vào nhiều thời điểm khác nhau. Thời tiết lý tưởng nhất ở Huế thường là vào tháng 11. Các bạn có thể tham khảo một vài khoảng thời gian hợp lý để đi Huế như sau
- Du khách trong nước thường đến Huế từ khoảng đầu tháng 5 cho đến cuối tháng 9. Khách du lịch nước ngoài lại đến Huế trong khoảng từ tháng 10 cho đến cuối tháng 4.
- Khoảng tháng 3 hàng năm, thời tiết Huế lúc này đang còn tương đối mát mẻ, trời cũng hiếm khi mưa nên các bạn có thể đi Huế vào dịp này, nhất là những gia đình có trẻ em và người già.
- Dịp lễ 30-4 Huế thường tổ chức các lễ hội festival với rất nhiều hoạt động văn hóa đặc sắc, ngoài ra vào dịp này cũng thường có lễ hội pháo hoa quốc tế ở Đà Nẵng, các bạn có thể lập lịch trình đi du lịch Huế kết hợp du lịch Đà Nẵng luôn.
Hướng dẫn đi tới Huế
Phương tiện cá nhân
Ô tô
Nhiều gia đình thích tự chạy xe tới Huế (Ảnh - vuidulich.vn)Nếu có ô tô cá nhân, chắc hẳn nhiều bạn thường cân nhắc và tính toán cho những chuyến tự lái xuyên Việt, trong đó Huế kiểu gì cũng sẽ là một điểm dừng mà ít bạn bỏ qua. Từ Hà Nội các bạn chỉ mất chừng 2 ngày để tới được Huế, quãng đường về cơ bản khá dễ đi, các bạn chỉ cần lưu ý đoạn từ Nghệ An tới Quảng Bình khá nhiều camera phạt nguội tự động.
Xe máy
Trừ trường hợp muốn đi xuyên Việt, không nhiều bạn chỉ chạy thẳng xe máy tới Huế rồi lại không đi đâu tiếp. Thực ra, nếu muốn các bạn cứ thoải mái theo phương án này. Đường di chuyển tới Huế cũng tương đối dễ đi, các bạn chỉ cần bám theo tuyến QL1A để tới được đây. Với quãng đường từ Hà Nội khoảng 600km, có thể mất khoảng 2 ngày để tới được Huế bằng xe máy.
Phương tiện công cộng
Ô tô
Nếu muốn đến Huế bằng xe ô tô giường nằm, các bạn có thể chọn xe của một số hãng open tour (Ảnh - Valentin Adler)Từ Hà Nội và Sài Gòn hàng ngày có rất nhiều các tuyến xe giường nằm chất lượng cao đi Huế, xe open tour đi Huế, thời gian di chuyển vào khoảng 13 tiếng (từ Hà Nội) hoặc 25 tiếng (từ Sài Gòn).
Tàu hỏa
Ga tàu Huế, chỉ cách trung tâm thành phố khoảng 2km (Ảnh - vuidulich.vn)Từ hai đầu ga Hà Nội và Sài Gòn hàng ngày đều có rất nhiều các chuyến tàu Thống Nhất, hầu hết đều dừng ở ga Huế bởi đây là một trong những ga lớn của tuyến đường sắt Bắc Nam. Các chuyến tàu SE1, SE3, SE5 SE7 khởi hành từ Hà Nội, các chuyến tàu SE2, SE4, SE6, SE8 khởi hành từ Sài Gòn. Để khớp với thời gian nhận phòng khách sạn các bạn từ Hà Nội có thể chọn tàu SE1 (khởi hành từ Hà Nội 22h20 và tới Huế lúc 10h52) hoặc SE3 (khởi hành từ Hà Nội 19h25 và đến Huế lúc 9h30). Ngoài ra còn có chuyến tàu SE19 (đi từ Hà Nội 20h10 đến Huế 9h42). Từ Sài Gòn các chuyến tàu phù hợp sẽ là tàu SE2 (khởi hành từ Sài Gòn lúc 21h55 và đến Huế lúc 16h19), tàu SE4 (khởi hành từ Sài Gòn lúc 22h00 và đến Huế lúc 16h39) hoặc tàu SE22 (khởi hành từ Sài Gòn lúc 11h50 và đến Huế lúc 10h10)
Xem thêm bài viết: Kinh nghiệm du lịch bằng tàu hỏa (Cập nhật 8/2021)
Máy bay
Hiện tại, từ Hà Nội chỉ có 2 đơn vị là VietjetAir và Vietnam Airlines khai thác các đường bay tới Huế, với chiều từ Sài Gòn sẽ có thêm Jetstar, giá vé máy bay tùy thời điểm sẽ vào khoảng 2000k-2500k khứ hồi từ Hà Nội và khoảng 1500k-2000k với chiều từ Sài Gòn. Sân bay Phú Bài cách trung tâm Tp Huế khoảng 40km, các bạn có thể sử dụng dịch vụ xe buýt đưa khách từ sân bay về trung tâm thành phố với giá vé khoảng 50k/1 người.
Đi lại tại Huế
Xích lô
Xích lô ở Huế tiện lợi vì rộng và mui cao, khi cần có thể chở hàng hoá hoặc có thể bật mui lên để chở khách một cách lịch sự và an toàn. Hiện nay dịch vụ giao thông bằng xích lô hấp dẫn và phù hợp nhất ở nội thành. Sử dụng phương tiện xích lô, bạn có thể thư thả đi dạo quanh thành phố cổ kính và xinh đẹp này.
Xe máy
Với lợi điểm là thành phố du lịch, nên bạn dễ dàng kiếm được cho mình 1 chiếc xe đạp hoặc xe máy phù hợp với giá phải chăng. Các địa điểm cho thuê xe đạp, xe máy nằm tập trung ở đường Hùng Vương, quãng đường từ cầu Trường Tiền đến ngã 4 Hùng Vương giao với Nguyễn Tri Phương. Khu vực thứ 2 là đường Lê Lợi, khu phố Tây đối diện khách sạn Hương Giang, các đường như Phạm Ngũ Lão, Chu Văn An đều có cho thuê xe.
Xem thêm bài viết: Thuê xe máy tại Huế (Cập nhật 8/2021)
Taxi
Nếu không có phương tiện cá nhân thì việc di chuyển giữa các địa điểm du lịch ở Huế các bạn sẽ cần sử dụng đến taxi. Bởi đa phần các địa điểm nằm rải rác quanh thành phố với khoảng cách từ vài cho đến hàng chục km. Taxi cũng tương đối phù hợp với gia đình có người già, trẻ nhỏ hay những nhóm bạn đông người.
Một số hãng taxi tốt đang hoạt động ở Huế:
- Vinasun: +84888672676
- Mai Linh: +84888672676
- Sun Taxi: +84888672676
Xe buýt
Mạng lưới vận tải hành khách công cộng xe buýt ở Huế không nhiều, chỉ khoảng chục tuyến nên không phủ được đến nhiều địa điểm du lịch trong tỉnh lắm. Tuy vậy, với những bạn muốn tiết kiệm chi phí, có thể sử dụng mạng lưới xe buýt này để đến được một số địa điểm như Sân bay Phú Bài, bãi biển Thuận An, hồ Truồi.
Lưu trú tại Huế
Resort
Nếu muốn tìm một nơi yên tĩnh, biệt lập, để có những giây phút nghỉ ngơi khi tới Huế, các bạn sẽ cần rời xa khu trung tâm. Một số khu nghỉ dưỡng được xây dựng gần các bãi biển Thuận An, Lăng Cô hay khu vực suối khoáng nóng Thanh Tân. Nếu ở đây, thường sẽ xác định không đi đâu bởi quãng đường di chuyển dài, đi đi về về nhiều lần không thật sự thuận tiện và tốn kém.
Khách sạn
Với số lượng khách sạn lưu trú trong thành phố tương đối lớn, nguồn cung rất cao nên hiếm khi ở Huế các bạn lại không thể đặt được khách sạn, ngay cả trong những dịp lễ cao điểm. Nếu thích thuận lợi cho việc ăn uống, đi lại chơi bời thì các bạn không nên ở trong các khu resort mà nên lựa chọn những khách sạn ở gần trung tâm.
Một số khách sạn tốt ở Huế
Xem thêm bài viết: Danh sách các khách sạn ở Huế (Cập nhật 8/2021)
Homestay
Nếu thích tìm những homestay nhỏ xinh, các bạn chịu khó lang thang ra hơi xa khu trung tâm một chút. Khu vực trung tâm thường sẽ chỉ có những phòng dạng dorm, thuận tiện cho chơi bời đi lại. Nhưng nếu thích không gian yên tĩnh nhưng với chi phí thấp, hãy chấp nhận việc đi xa. Rất nhiều những homestay nhỏ xinh ở Huế đang đợi bạn khám phá.
Địa điểm du lịch ở Huế
Quần thể di tích Cố Đô
Quần thể di tích Cố đô Huế hay Quần thể kiến trúc cố đô Huế là những di tích lịch sử - văn hóa do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 trên địa bàn kinh đô Huế xưa. Nay hầu hết thuộc phạm vi thành phố Huế và một vài vùng phụ cận của tỉnh Thừa Thiên Huế.
Kinh Thành Huế
Kinh thành Huế hay Thuận Hóa kinh thành là một tòa thành ở cố đô Huế, nơi đóng đô của triều đại nhà Nguyễn trong suốt 143 năm từ 1802 đến khi thoái vị vào năm 1945. Kinh Thành Huế được quy hoạch bên bờ Bắc sông Hương, xoay mặt về hướng Nam, với diện tích mặt bằng 520 ha. Vòng thành có chu vi gần 10 km, cao 6,6m, dày 21m được xây khúc khuỷu với những pháo đài được bố trí cách đều nhau, kèm theo các pháo nhãn, đại bác, kho đạn. Thành ban đầu chỉ đắp bằng đất, mãi đến cuối đời Gia Long mới bắt đầu xây gạch. Bên ngoài vòng thành có một hệ thống hào bao bọc ngay bên ngoài. Riêng hệ thống sông đào (Hộ Thành Hà) vừa mang chức năng bảo vệ vừa có chức năng giao thông đường thủy có chiều dài hơn 7 km.
Kỳ đài
Hay còn gọi là Cột Cờ, nằm chính giữa mặt nam của kinh thành Huế thuộc phạm vi pháo đài Nam Chánh cũng là nơi treo cờ của triều đình. Kỳ Đài được xây dựng vào năm Gia Long thứ 6 (1807) cùng thời gian xây dựng kinh thành Huế. Đến thời Minh Mạng, Kỳ Ðài được tu sửa vào các năm 1829, 1831 và 1840.
Cửu vị thần công
Là tên gọi 9 khẩu thần công thời nhà Nguyễn được các nghệ nhân Huế đúc năm Gia Long thứ hai (1803). Chín khẩu thần công này được đánh giá là lớn nhất của Việt Nam, và là một trong những tác phẩm nghệ thuật bằng đồng có giá trị cao. Cửu vị thần công xưa được đặt dưới chân Hoàng Thành, trước cửa Ngọ Môn của kinh thành Huế. Đến năm 1917 đời vua Khải Định, các cỗ súng này được chuyển ra vị trí Kỳ đài như ngày nay.
Hoàng Thành Huế
Là vòng thành thứ hai bên trong kinh thành Huế, nơi ở của vua và Hoàng gia, cũng là nơi làm việc của triều đình. Ngoài ra Hoàng thành Huế còn là nơi thờ tự tổ tiên và các vị vua nhà Nguyễn.
Tử Cấm Thành
Là vòng thành trong cùng, nằm trong Hoàng thành. Tử Cấm thành nguyên gọi là Cung Thành, được khởi công xây dựng từ năm Gia Long thứ 2 (1803), năm Minh Mạng thứ 2 (1821) đổi tên thành Tử Cấm Thành. Hiện nay hầu hết các công trình trong Tử Cấm thành đều đã xuống cấp do thời gian hoặc bị phá hủy trong chiến tranh.
Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế
Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế là một viện bảo tàng tại số 3, Lê Trực, Tp Huế. Tòa nhà chính của viện bảo tàng bằng gỗ, có 128 cây cột gỗ quý, trên các cột có hình chạm khắc tứ linh: long - li - quy - phụng và hơn 1000 bài thơ bằng chữ Hán. Tòa nhà này chính là điện Long An xây năm 1845 dưới thời vua Hiến tổ nhà Nguyễn, niên hiệu là Thiệu Trị. Hiện bảo tàng trưng bày hơn 300 hiện vật bằng vàng, sành, sứ, pháp lam Huế, ngự y và ngự dụng, trang phục của hoàng thất nhà Nguyễn, cho khách tham quan một cái nhìn tổng thể về cuộc sống cung đình Huế.
Hồ Tịnh Tâm
Nguyên xưa, hồ là một đoạn sông Kim Long được cải tạo lại, tên ban đầu là ao Ký Tế. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), triều Nguyễn đã huy động tới 8000 binh lính tham gia vào việc cải tạo hồ, biến nó trở thành một Ngự Uyển của Hoàng gia. Sau khi hoàn thành, hồ mang tên mới là Tịnh Tâm. Với kiểu kiến trúc cầu kỳ, nhưng hết sức hài hòa với tự nhiên, hồ Tịnh Tâm được xem là một thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc cảnh quan Việt Nam thế kỷ XIX. Cảnh đẹp của hồ đã tạo nguồn thi hứng và trở thành đề tài cho nhiều bài thơ, chùm thơ nổi tiếng của các vua Nguyễn như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức…
Đàn Xã Tắc
Đàn Xã Tắc là một công trình thuộc quần thể di tích cố đô Huế, đây là nơi tế thần đất và thần lúa của triều Nguyễn ở kinh đô Huế. Sau khi đàn Xã Tắc được xây dựng xong, triều đình nhà Nguyễn rất chú trọng việc cúng tế ở đàn này. Ý nghĩa của việc tế lễ đàn Xã Tắc cũng quan trọng không kém việc tế ở đàn Nam Giao và cùng được xếp ở bậc đại tự (trong ba bậc đại tự, trung tự và quần tự). Từ sau 1975, Đàn hoàn toàn biến mất và chỉ còn sót lại chỉ còn tấm biển “Thái Xã Chi Thần”.
Phu Văn Lâu
Phu Văn lâu (hay còn gọi là lầu Phu Văn) là một tòa lầu nằm trên trục chính của Hoàng thành Huế. Từ Kỳ đài nhìn ra sông Hương có hai công trình kiến trúc tô điểm cho bộ mặt của Kinh thành Huế. Một trong hai công trình ấy là Phu Văn lâu (phu: trưng bày, văn: văn thư, lâu: lầu) - Cái lầu trưng bày văn thư của triều đình. Phu Văn lâu được xây dựng vào năm thi 1819 dưới thời vua Gia Long, dùng làm nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng của nhà vua và triều đình, hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức.
Chùa Thiên Mụ
Chùa Thiên Mụ hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế (Việt Nam) khoảng 5 km về phía tây. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng - vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong.
Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê.
Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: “Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh”. Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn.
Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp được với ý nguyện của dân chúng. Nguyễn Hoàng cả mừng, vào năm 1601 đã cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là “Thiên Mụ”.
Điện Hòn chén
Núi Ngọc Trản xưa có tên là Hương Uyển Sơn, sau mới đổi tên là Ngọc Trản (có nghĩa là chén ngọc), dân gian vẫn quen gọi là Hòn Chén vì nó ngay ngắn tròn trĩnh như hình chén úp. Cũng vì vậy, người ta quen gọi ngôi điện thờ Thánh mẫu tọa lạc giữa lưng chừng núi là điện Hòn Chén.
Điện Hòn Chén là một cụm di tích gồm khoảng 10 công trình kiến trúc to nhỏ khác nhau đều nằm lưng chừng sườn núi Ngọc Trản, hướng mặt ra sông Hương, ẩn mình dưới những tàng cây cao bóng cả. Mặt bằng của toàn bộ cụm di tích này không lớn lắm, công trình kiến trúc chính là Minh Kính Đài tọa lạc ở giữa; bên phải là nhà Quan Cư, Trinh Cát Viện, Chùa Thánh; bên trái là dinh Ngũ Hành, bàn thờ các quan, động thờ ông Hổ, am Ngoại Cảnh. Sát mép bờ sông còn có am Thủy Phủ. Ngoài ra, trong phạm vi ấy còn có nhiều bệ thờ, nhiều am nhỏ nằm rải rác đó đây.
Hệ thống Lăng tẩm ở Huế
Lăng Gia Long
Lăng Gia Long còn gọi là Thiên Thọ Lăng bắt đầu được xây dựng từ năm 1814 và đến năm 1820 mới hoàn tất. Lăng thực ra là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyến. Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi, núi lớn nhỏ, trong đó có Đại Thiên Thọ là ngọn núi lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và là tên gọi của cả quần sơn này.
Lăng Minh Mạng
Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu lăng do vua Thiệu Trị cho xây dựng từ năm 1840 đến năm 1843 để chôn cất vua cha Minh Mạng. Lăng nằm trên núi Cẩm Khê, gần ngã ba Bằng Lãng là nơi hội lưu của hai dòng Hữu Trạch và Tả Trạch hợp thành sông Hương, cách cố đô Huế 12 km.
Lăng Thiệu Trị
Lăng Thiệu Trị còn gọi là Xương Lăng nằm ở địa phận thôn Cư Chánh, xã Thủy Bằng, Thị xã Hương Thủy. Được vua Tự Đức cho xây dựng vào năm 1847 để chôn cất vua cha Thiệu Trị. So với lăng tẩm các vua tiền nhiệm và kế vị, lăng Thiệu Trị có những nét riêng. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời Nguyễn.
Lăng Tự Đức
Lăng Tự Đức được chính vua Tự Đức cho xây dựng khi còn tại vị, là một quần thể công trình kiến trúc, trong đó có nơi chôn cất vua Tự Đức tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (cũ), nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau cuộc nổi loạn Chày Vôi, Tự Đức bèn đổi tên thành Khiêm Cung. Sau khi Tự Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng. Lăng có kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn.
Lăng Đồng Khánh
Lăng Ðồng Khánh còn gọi là Tư Lăng tọa lạc giữa một vùng quê thuộc làng Cư Sĩ, xã Dương Xuân ngày trước (nay là thôn Thượng Hai, phường Thủy Xuân, thành phố Huế). Nguyên trước đây là Ðiện Truy Tư được vua Đồng Khánh xây dựng để thờ cha mình là Kiên Thái Vương. Khi Ðồng Khánh mắc bệnh và đột ngột qua đời. Vua Thành Thái (1889-1907) kế vị trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, kinh tế suy kiệt nên không thể xây cất lăng tẩm quy củ cho vua tiền nhiệm, đành lấy điện Truy Tư đổi làm Ngưng Hy để thờ vua Ðồng Khánh.
Lăng Dục Đức
Lăng Dục Ðức tên chữ An Lăng tọa lạc tại thôn Tây Nhất, làng An Cựu, xưa thuộc huyện Hương Thủy, nay thuộc phường An Cựu, thành phố Huế, cách trung tâm thành phố chưa đầy 2 km; là nơi an táng của 3 vua nhà Nguyễn: Dục Ðức, Thành Thái và Duy Tân. Dục Đức lên ngôi năm 1883 được 3 ngày thì bị phế truất và mất, sau này con ông là vua Thành Thái (lên ngôi năm 1889) cho xây lăng để thờ cha đặt tên là An Lăng. Năm 1954, khi vua Thành Thái mất, thi hài được đưa về chôn tại địa điểm hiện nay trong khu vực An Lăng và được thờ ở ngôi điện Long Ân. Năm 1987, hài cốt vua Duy Tân được đưa về an táng cạnh lăng Thành Thái.
Lăng Khải Định
Lăng Khải Định còn gọi là Ứng Lăng toạ lạc trên triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê) bên ngoài kinh thành Huế là lăng mộ của vua Khải Định, vị vua thứ 12 của triều Nguyễn. Lăng được xây dựng từ năm 1920 ngay sau khi Khải Định lên ngôi. Về kiến trúc lăng Khải Định được người đời sau thường đặt ra ngoài dòng kiến trúc truyền thống thời Nguyễn bởi sự pha trộn kiến trúc Đông Tây Kim Cổ lạ thường, với các tác phẩm nghệ thuật ghép tranh sành sứ độc đáo.
Các địa điểm trong Thành phố Huế
Cầu Trường Tiền
Cầu Trường Tiền còn được gọi là Cầu Tràng Tiền , là chiếc cầu dài 402,60 m, gồm 6 nhịp dầm thép hình vành lược, khẩu độ mỗi nhịp 67 m. Khổ cầu 6 m, được thiết kế theo kiến trúc Gothic, bắc qua sông Hương. Đầu cầu phía bắc thuộc phường Phú Hòa, đầu cầu phía nam thuộc phường Phú Hội; ở ngay giữa thành phố Huế.
Sông Hương
Sông Hương có hai ngọn nguồn. Nguồn Tả Trạch xuất phát từ dãy núi Trường Sơn chảy về hướng Tây Bắc qua 55 ngọn thác hùng vĩ, nguồn Hữu Trạch ngắn hơn sau khi vượt 14 ngọn thác hiểm trở và đến ngã ba Bằng Lãng (ngã ba Tuần) hợp dòng với Tả Trạch thành sông Hương thơ mộng. Sông Hương dài 30 km (nếu chỉ kể từ Bằng Lãng đến cửa Thuận An), độ dốc của dòng nước so với mặt biển không chênh lệch nhiều nên nước sông chảy chậm. Sắc nước sông Hương trở nên xanh hơn khi vượt qua chân núi Ngọc Trản - điện Hòn Chén, tạo nên một lòng vực sâu thẳm.
Sông Hương đẹp từ nguồn, uốn lượn quanh co giữa núi rừng trùng điệp, đồi cây, mang theo những mùi vị hương thơm của thảo mộc rừng nhiệt đới. Dòng sông chầm chậm lướt qua các làng mạc xanh tươi, rợp bóng cây của Kim Long, Nguyệt Biều, Vĩ Dạ, Ðông Ba, Gia Hội, Chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh, quyện theo mùi thơm của các loài hoa xứ Huế. Dòng sông xanh trong vắt lung linh như ngọc bích dưới ánh mặt trời, những con thuyền Huế xuôi ngược, dọc ngang với điệu hò man mác, trầm tư, sâu lắng giữa đêm khuya. Ði chơi bằng thuyền để được ngắm cảnh Hương giang thơ mộng, nghe những điệu hò, dân ca xứ Huế lúc trời đêm thanh vắng là thú vui muôn thuở của bao lớp du khách….
Núi Ngự Bình
Núi Ngự Bình (còn gọi là Bằng Sơn) cao 105 m, dáng cân đối uy nghi. Hai bên Bằng Sơn có hai ngọn núi nhỏ chầu vào gọi là Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn. Vương triều Nguyễn khi xây dựng kinh thành Huế đã chọn núi này làm tiền án của hệ thống phòng thành đồ sộ, kiên cố và đổi tên cho ngọn núi này là Ngự Bình.
Cùng với sông Hương, núi Ngự Bình là quà tặng vô giá thứ hai của tạo hoá, quyện vào nhau tạo nên vẻ đẹp sơn thuỷ hữu tình của Huế. Từ lâu, ngọn núi xinh đẹp này cùng với sông Hương trong xanh đã trở thành biểu tượng của thiên nhiên Huế. Người ta quen gọi Huế là xứ sở của sông Hương - núi Ngự, miền Hương Ngự.
Chợ Đông Ba
Chợ Đông Ba là ngôi chợ lớn nhất tại Huế. Chợ là một trong những biểu tượng của vùng đất cố đô, với lịch sử hơn 100 năm xây dựng và phát triển. Chợ nằm trải dài từ chân cầu Trường Tiền đến cầu Gia Hội với tổng diện tích mặt bằng là 47.614 m²
Phố đi bộ Huế
Được khai trương vào cuối tháng 9/2017, khu phố đi bộ của Huế bao gồm các tuyến phố Chu Văn An, Phạm Ngũ Lão, Võ Thị Sáu và hoạt động từ 18h00 trong 3 ngày cuối tuần. Tại khu phố đi bộ này, các bạn có thể thưởng thức nhiều món ăn địa phương của Huế, xem các tiết mục âm nhạc đường phố hay đơn giản chỉ ngồi nhâm nhi chút đồ uống với bạn bè.
Nhà vườn Huế
Huế không chỉ nổi tiếng với cảnh sắc thiên nhiên mơ mộng hữu tình mà còn đặc biệt hấp dẫn với chiều sâu của vẻ đẹp văn hóa tinh thần kết đọng nhuần nhị nơi mỗi nét kiến trúc. Cùng với các lăng tẩm trầm mặc. Hoàng thành cổ kính, những ngôi nhà vườn êm ả thanh bình ở đây làm nên “thành phố nhà vườn” Huế.
Được xây theo luật “dịch lý” và “phong thủy”, nhà vườn Huế là tập hợp của một hệ thống kiến trúc sắp xếp theo chiều Bắc - Nam. Tuy rộng hẹp khác nhau, nhưng nhà nào cũng có kiến trúc tổng thể giống nhau, bao gồm: cổng, ngõ, bình phong, hòn non bộ, bể cạn, sân, nhà. Cổng thường xuyên xây bằng gạch, lối vào ngõ thường được trồng những hàng râm bụt hoặc chè tàu cắt xén cẩn thận. Bình phong cũng thường xây bằng gạch. Sau bình phong là bể cạn có hòn non bộ, một mảnh sân rộng rồi mới đến nhà. Xung quanh nhà trồng rất nhiều cây, hoa quanh năm tươi tốt.
Nhà thờ Phủ Cam
Nhà thờ chính tòa Phủ Cam là nhà thờ chính tòa của Tổng Giáo phận Huế, tọa lạc trên đồi Phước Quả, thuộc địa phận phường Phước Vĩnh. Đây là một trong những nhà thờ to lớn, nổi tiếng và lâu đời nhất tại Huế. Ngôi nhà thờ ngày nay được xây theo lối kiến trúc hiện đại, do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế.
Về kiến trúc, mặt bằng xây dựng nhà thờ mang dạng thánh giá, đầu hướng về phía Nam đuôi hướng Bắc. Nhà thờ có kết cấu theo kỹ thuật xây dựng hiện đại nhưng phần trang trí vẫn theo nghệ thuật cổ điển của phương Tây. Các trụ đỡ được đúc sát vào tường, chạy uốn cong dần về phía trước, mềm mại. Bốn góc mỗi góc có ba trụ đỡ vươn dần ra, tạo thành một không gian đủ rộng ôm kín Cung thánh và bàn thờ. Lòng nhà thờ rộng, có thể chứa được 2500 người đến dự lễ. Có hai dãy cửa gương màu nằm ở phần trên bên trong lòng nhà thờ cung cấp ánh sáng cho nội thất. Cung thánh là một hình tròn có các cấp đi lên, trên cung là một hình tròn nhưng nhỏ hơn với bàn thờ bằng đá cẩm thạch nguyên khối.
Chùa
Chùa Từ Đàm
Chùa Từ Đàm là một ngôi chùa cổ danh tiếng ở Huế; hiện tọa lạc tại số 1 đường Sư Liễu Quán, thuộc phường Trường An, thành phố Huế. Chùa do Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung khai sơn vào khoảng cuối thế kỉ XVII, và sau đó được đặt tên là chùa Ấn Tôn (hay Tông), với ý nghĩa là “lấy sự truyền tâm làm tông chỉ.
Chùa Từ Hiếu
Chùa Từ Hiếu hay Tổ đình Từ Hiếu là tên một ngôi chùa ở thôn Dương Xuân Thượng III, phường Thủy Xuân. Chùa là một trong những ngôi cổ tự lớn và là một danh lam có tính văn hoá và lịch sử của cố đô Huế. Chùa Từ Hiếu nằm khuất trong một rừng thông trên một vùng đồi của phường Thủy Xuân. Khuôn viên chùa rộng chừng 8 mẫu, phía trước có khe nước uốn quanh, phong cảnh thơ mộng.
Trước cổng chùa có ngôi tháp cao 3 tầng được xây dựng vào năm 1896 dùng làm nơi tàng trữ kinh tượng theo sắc chỉ của nhà vua. Cổng chùa được xây theo kiểu vòm cuốn, hai tầng có mái che và ngay trước con đường lát gạch để vào chánh điện là một hồ bán nguyệt trồng sen và nuôi cá cảnh. Cấu trúc chùa theo kiểu ba căn hai chái, trước là chính điện thờ Phật, sau là Quảng Hiếu Đường. Ở khu nhà hậu có án thờ Tả quân đô thống Lê Văn Duyệt cùng con ngựa gỗ và thanh đại đao của ông.
Hai bên sân chùa có hai lầu bia để ghi lịch sử xây dựng chùa. Chùa được xây theo kiểu chữ khẩu (口), chính điện ba căn, hai chái, phía trước thờ Phật, phía sau thờ Tổ. Nhà hậu là Quảng Hiếu đường, ở giữa thờ đức thánh quan, bên trái thờ hương linh phật tử tại gia, bên phải thờ các vị Thái giám…, bên tả sân hậu là Tả Lạc Thiên (nhà tăng) và bên hữu là Hữu Ái Nhật (nhà khách).
Chùa Báo Quốc
Chùa Báo Quốc tọa lạc trên đồi Hàm Long trên đất xưa gọi là làng Thụy Lôi, gần với xóm Lịch Đợi. Từ đây nhìn xuống hướng đông là đường Điện Biên Phủ (con đường dẫn lên đàn Nam Giao) và nhìn về hướng bắc là ga xe lửa. Chùa do Hoà Thượng Giác Phong, người Quảng Đông, Trung Quốc, khai sơn vào cuối thế kỷ 17 dưới đời vua Lê Dụ Tông và đặt tên là Hàm Long Tự. Sau đó Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban sắc tứ Báo Quốc Tự vào năm 1747. Hiện vẫn còn tấm biển vàng thếp vàng và những bức liễu từ thời ấy. Thời Tây Sơn chùa bị sử dụng làm công xưởng.
Chùa Thiền Lâm
Chùa Thiền Lâm do Hoà thượng Hộ Nhẫn thành lập năm 1960. Nguyên do vào năm 1958, Giáo hội đề cử Ngài từ Tam Bảo về trụ trì chùa Tăng Quang; sau một thời gian ngắn Ngài nhận thấy hạnh độc cư thiền định, đầu đà Tam y Nhất bát nuôi mạng bằng khất thực không thích hợp ở đây, nên vào năm 1960 Ngài đến thôn Thượng II, xã Thuỷ Xuân, dựng một am thất nhỏ ở ngọn đồi Quảng Tế để tu hành. Là ngôi chùa Phật giáo Nam Tông nhưng chất thiền vẫn rõ nét trong không gian và các công trình kiến trúc của chùa. Không mang trên mình bề dày như những ngôi chùa Bắc Tông trên vùng đất xứ Huế, chùa “Phật đứng - Phật nằm” gợi đến cảm giác “là lạ”, nhẹ nhàng và tĩnh tại toát lên từ những gì mà ngôi tự đang có.
Chùa Diệu Đế
Chùa Diệu Đế toạ lạc bên bờ sông Hộ Thành, người Huế gọi là sông Gia Hội, hoặc sông Đông Ba, nay là số 100B đường Bạch Đằng, gần cầu Gia Hội. Chùa Diệu Đế có một vị trí quan trọng trong lịch sử Phật giáo ở Huế. Chùa nguyên là phủ của vua Thiệu Trị trước khi lên ngôi nên đã có cảnh quan rất đẹp, với vườn tược rộng rãi, cây cối xanh tươi. Năm 1844 nhà vua đã tôn tạo và sắc phong làm Quốc tự. Chùa trở thành một danh lam của đất kinh kỳ.
Đồi Vọng Cảnh
Đồi Vọng Cảnh là một ngọn đồi cao 43m ở phía Tây Nam thành phố Huế, chân đồi tiếp giáp bờ sông Hương. Nó tọa lạc giữa vùng lăng tẩm của các vua chúa nhà Nguyễn và đối diện với điện Hòn Chén được thiết lập từ thời xa xưa ở phái đối ngạn. Đứng trên đồi Vọng Cảnh, người ta có được một cái nhìn bao quát đối với nhiều di tích cổ kính và những cảnh đẹp tuyệt vời ở một không gian thiên nhiên rộng lớn chung quanh, đặc biệt nhất là vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của sông Hương. Ngọn đồi nằm giữa một khúc uốn mềm mại, dịu dàng và hấp dẫn nhất của dòng sông nổi tiếng đa tình và gợi cảm này. Đây là nơi sông núi xích lại gần nhau để tạo ra một không gian sơn kỳ thủy tú. Ý nghĩa của địa danh Vọng Cảnh là như vậy.
Phong Điền
Suối khoáng Thanh Tân
Được phát hiện năm 1928 bởi các nhà khoa học Pháp, suối khoáng Thanh Tân nhanh chóng được nghiên cứu, ứng dụng làm nước giải khát phục hồi sức khỏe con người. Năm 1983, nguồn nước này được Bộ Y tế cho phép khai thác làm nước uống đóng chai. Tuy nhiên, đến cuối năm 2000, khu du lịch suối nước khoáng Thanh Tân mới trở nên thông dụng và được nhiều người biết tới. Khu du lịch suối khoáng Thanh Tân xây dựng trên diện tích 50 ha. Bên cạnh những dãy núi cao ngất là những quả đồi được tạo hóa sắp xếp liền kề. Màu xanh của núi rừng, cây cỏ đã tạo cho khách cảm giác thư thái, dễ chịu ngay từ phút đầu tiên. Nước khoáng Thanh Tân nằm sâu hàng nghìn mét dưới lòng đất, chứa Calcium Sunfat và Silicium… rất tốt cho cơ thể. Vì thế, đây là điểm đến thích hợp với nhiều du khách trong tiết trời se se lạnh, giao mùa.
Làng cổ Phước Tích
Làng cổ Phước Tích nằm giáp ranh giữa 2 tỉnh Thừa Thiên Huế và Quảng Trị. Theo sử sách, Phước Tích được thành lập từ năm 1470 dưới thời Lê Thánh Tông và được bao bọc hầu như toàn bộ bởi dòng sông Ô Lâu huyền thoại, nước sông luôn trong xanh khiến nơi đây gần như một hòn đảo. Hơn 500 năm tồn tại, trải qua các cuộc chiến tranh binh lửa và sự tàn phá của thiên nhiên. Phước Tích vẫn còn giữ gìn gần như nguyên vẹn vẻ đẹp nguyên sơ của đời sống sinh hoạt làng quê Việt với phong cảnh hữu tình, yên ả, với cây đa, bến nước, sân đình.
Phá Tam Giang
Tam Giang là hợp lưu của ba con sông Ô Lâu, sông Bồ và sông Hương trước khi đổ vào biển Đông. Vì thế phá Tam Giang mang tính “biểu tượng” về môi trường sinh thái của Huế xưa và nay. Không một du khách nào đến đây, lại bỏ qua địa danh nổi tiếng này.
Đây là vùng đất ngập mặn lớn nhất Đông Nam Á, mặt nước rộng 248,7 km², khơi đầu từ cửa sông Ô Lâu ở phía bắc đến cửa sông Hương ở phía nam. Đầm phá bao đời nay có rất nhiều động vật thủy sinh, nhiều nhất ở các cửa biển Thuận An, cửa sông Ô Lâu, sông Bồ, đầm Thủy Tú. Cầu Hai. Hiện nay đã xác định được 163 loài cá, nhiều loài quý hiếm như cá vược, cá chình. Tùy theo mùa, còn một số loài cá di cư vào đầm phá để sinh sản như cá mòi, cá cơm biển… Ngược lại, cá đối, cá mú, cá dìa sống trong đầm phá lại di cư ra biển để đẻ trứng. Quanh năm, ngư dân đánh bắt được trên đầm phá khoảng 23 loài cá có giá trị kinh tế cao là cá dầy, cá dìa, cá bống thệ, cá hanh, cá hồng, cá căn…
Bề mặt đầm phá có thảm thực vật tự nhiên nên các loài chim nước tụ tập về đây, tạo thành các sân chim lớn tại cửa sông Ô Lâu, cửa sông Đại Giang và đầm Sam. Qua theo dõi, đã phát hiện được 34 loài chim di cư, 36 loài chim định cư, đặc biệt có 21 loài chim thuộc danh mục bảo vệ nghiêm ngặt của cộng đồng Châu Âu và một loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam.
Phú Vang
Đầm Thủy Tú
Đầm Thủy Tú là một trong ba đầm phá hợp thành hệ đầm phá Tam Giang. Đầm Thủy Tú bao gồm: đầm An Truyền, Thanh Lam (Sam), Hà Trung và Thủy Tú. Đầm Thủy Tú kéo dài từ cầu Thuận An đến Cồn Trai trên chiều dài 33km. Chiều rộng đầm biến đổi từ 0,5km (đầm Thủy Tú) đến 5,5km (đầm An Truyền ), trung bình 1,8km, chiều sâu đầm thay đổi từ 1 - 1,5m đến 3 - 5m tùy thuộc khu vực, nhưng phổ biến là 1,5 - 2m. Diện tích mặt nước của đầm tới 60km. Đây là một địa danh có nhiều cảnh đẹp và các sản vật nổi tiếng
Đầm Chuồn
Đầm Chuồn là một phần trong hệ thống Đầm Thủy Tú, đi qua quốc lộ 49 rẽ về hướng An Truyền, qua các cánh đồng thơm mùi lúa chín đầm Chuồn hiện ra trong sự bình yên. Đặc biệt, thiên nhiên đầm Chuồn tuyệt vời hơn vào mỗi sáng sớm và buổi chiều tà với những mảng màu đa sắc.
Bãi biển Thuận An
Bãi biển Thuận An nằm bên cạnh cửa biển Thuận An cách thành phố Huế 15km về phía Đông, nơi dòng sông Hương đổ ra phá Tam Giang rồi thông ra biển. Thuận An là địa điểm thu hút rất đông người dân xứ Huế về hóng mát và tắm biển vào dịp hè. Thời kỳ tấp nập nhất ở đây thường kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9 lúc tiết trời nóng bức nhất. Du khách về Thuận An có thể đến tham quan miếu Thái Dương ở gần đó với sự tích nữ thần Thái Dương được dân làng hết sức sùng bái, hoặc thăm miếu Âm Linh thờ thần cá voi, con vật linh thiêng của dân miền biển.
Hương Thủy
Cầu ngói Thanh Toàn
Cầu ngói Thanh Toàn là chiếc cầu vòm bằng gỗ với mái ngói bắc qua một con mương làng Thanh Thủy Chánh, thuộc xã Thuỷ Thanh, cách thành phố Huế khoảng 8 km về phía Đông Nam. Đây là chiếc cầu gỗ được xếp vào loại hiếm và có giá trị nghệ thuật cao nhất trong các loại cầu cổ ở Việt Nam.
Cầu ngói Thanh Toàn được xây dựng theo lối “thượng gia hạ kiều” (trên nhà, dưới cầu). Cầu dài 43 thước mộc (18,75m), rộng 14 thước mộc (5,82m), chia làm 7 gian, hai bên thân cầu có hai dãy bục gỗ và lan can để ngồi tựa lưng. Trên cầu có mái che, lợp ngói lưu ly. Cầu đầu tiên được xây dựng cách đây hơn hai thế kỷ đã bao lần bị gió bão, lụt lội và chiến tranh tàn phá. Tuy nhiên, sau các lần hư hỏng, nhân dân xã đều chung nhau tu sửa, tôn tạo và gìn giữ.
Đồi Thiên An
Thiên An là địa danh gồm nhiều ngọn đồi trồng thông phía Tây Nam thành phố Huế, gần lăng vua Khải Ðịnh. Trên đỉnh đồi có Tu viện Thiên An, chung quanh khu vực đồi có hồ Thủy Tiên và khu lăng mộ cổ Ba Vành, còn in dấu vết một nghi án xưa. Khung cảnh bình yên, không gian trong lành, Thiên An và Thủy Tiên là nơi nghỉ dưỡng cuối tuần khá thú vị.
Thác Đá Dăm
Đá Dăm là một ngọn thác nhỏ ở thị xã Hương Thủy. Từ trung tâm TP Huế, có hai đường đến thác: một là men theo đường qua công trình hồ Tả Trạch; hai là đi theo hướng cầu Tuần, qua bến đò Tân Ba. Trên đường vào thác có một căn nhà nhỏ của Kiểm lâm Hương Thủy. Các anh nhân viên sẽ là những “thổ địa” cung cấp nhiều thông tin bổ ích về con người, sinh vật khu vực này. Nếu gặp khó khăn trong việc đi lại, tìm kiếm nước uống… đừng ngần ngại mở lời xin giúp đỡ.
Huyền Không Sơn Thượng
Huyền Không Sơn Thượng tọa lạc tại thôn Chầm, phường Hương Hồ là một ngôi chùa nổi tiếng, một thắng cảnh của cố đô Huế. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Nam tông, được Thượng tọa Giới Đức khai sơn năm 1989. Chùa nằm giữa khu rừng thông quanh năm xanh tươi, mát mẻ, chim hót líu lo.
Huyền không Sơn Thượng nằm ở lưng chừng núi với vẻ đẹp kỳ lạ, huyền ảo. Chùa không có cổng Tam quan to lớn mà cổng chùa chỉ bình thường như cổng của một ngôi nhà sân vườn Huế. Khuôn viên chùa là một khu vườn xanh ngắt với những dòng suối nhỏ nở đầy bông súng tím, những giò hoa phong lan quý, những cây sứ, thiên tuế, tùng, bách … cổ thụ hàng trăm năm tuổi, không gian yên ả thanh bình.
Phú Lộc
Hồ Truồi
Hồ Truồi có diện tích khoảng 400 ha, dung tích lòng hồ đến 60 triệu mét khối nước, là công trình thủy lợi lớn nhất ở tỉnh Thừa Thiên Huế, với mục đích tưới tiêu cho đồng ruộng các xã Lộc Hòa, Lộc Điền. Trước kia diện tích hồ lòng hồ rất nhỏ. Đập Truồi ngăn nước cao 50 mét được tỉnh Thừa Thiên - Huế xây dựng vào năm 1996.
Khu du lịch Hồ Truồi nằm dưới chân dãy Bạch Mã hùng vĩ. Đến hồ Truồi du khách sẽ thấy một vùng nước trong xanh được bao bọc bởi các dãy núi xanh ngát, phong cảnh sơn thủy hữu tình.
Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã
Thuộc Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Trúc Lâm Bạch Mã là ngôi thiền viện đầu tiên tại miền Trung, tọa lạc tại núi Bạch Mã, khu vực hồ Truồi. Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã hiện lên giữa lòng Hồ Truồi như một đóa hoa, gối đầu vào núi rừng Bạch Mã trải dài hút mắt. Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã là một quần thể danh lam giữa vùng sơn thủy hữu tình đã trở thành địa chỉ tham quan cho du khách thập phương khi đến với vùng đất cô đô Huế.
Vườn Quốc gia Bạch Mã
Vườn Quốc gia Bạch Mã ở độ cao 1.450m, là nơi nghỉ mát nổi tiếng ở Việt Nam trước đây. Trên đỉnh núi hùng vỹ 4 mùa xanh tươi với thác nước, suối rừng, là cả một vùng khí hậu ôn đới như ở Sa Pa, Tam Ðảo, Ðà Lạt… Núi Bạch Mã còn là nơi quy tụ nhiều loại động vật và thực vật quý hiếm ở miền nhiệt đới.
Núi Bạch Mã nổi tiếng bởi có những con suối và nhiều ngọn thác ngoạn mục. Thác Ðỗ Quyên cao 400m, rộng 20m, nhữngngày hè, hai bên bờ thác, hoa Ðỗ Quyên nở rộ như hai thảm lụa hoa khổng lồ. Ở trung tâm khu nghỉ mát có ngọn thác Bạc cao 10m, rộng 40m như một bức rèm trắng muốt đung đưa trước gió. Ðứng trên đỉnh núi Bạch Mã bạn có thể thu vào tầm mắt toàn cảnh lộng lẫy của đèo Hải Vân, núi Túy Vân, đầm Cầu Hai và ánh điện lung linh của thành phố Huế vào ban đêm.
Bãi biển Cảnh Dương
Cảnh Dương là một trong những bãi biển đẹp cách thành phố Huế chừng 60 km về phía Nam. Bãi biển Cảnh Dương dài 8 km, rộng 200 m, hình vòng cung, nằm giữa mũi chân Mây Tây và chân Mây Ðông, bờ biển có độ dốc thoai thoải, cát trắng mịn, nước biển trong xanh và tương đối kín gió rất thuận lợi cho việc tổ chức các loại hình du lịch và thể thao.
Lăng Cô
Bãi tắm Lăng Cô dài khoảng 8km, nằm dọc Quốc lộ 1A, cạnh đèo Hải Vân và cách Vườn Quốc gia Bạch Mã 24km. Ðây là một bãi tắm có bờ biển thoải, cát trắng, sóng vừa và lớn, thủy triều lên xuống theo chế độ bán nhật triều với mức chênh lệch thấp (chỉ khoảng 0,7-0,8m), rất thích hợp cho loại hình du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng, lặn biển, và đã được xác định là một khu nghỉ mát lý tưởng từ mấy chục năm nay. Dọc theo chân núi Hải Vân, biển Lăng Cô có dải san hô, tôm hùm và nhiều loại hải sản có giá trị cao. Trong khu vực đó còn có hòn Sơn Chà (đảo nhỏ), tại đây còn bảo tồn nhiều loại động, thực vật hoang dã.
Đầm Lập An
Đầm Lập An (đầm An Cư) nằm gần trục đường quốc lộ 1A, đoạn qua thị trấn Lăng Cô trên con đường nối từ Đà Nẵng đến Huế. Đầm nằm ở vị trí khá đẹp khi tọa lạc dưới chân đèo Phú Gia với bán kính rộng 15 km2. Bao quanh quanh đầm là dãi núi Bạch Mã hùng vĩ, phía trước đầm là vịnh Lăng Cô.
Đầm Cầu Hai
Đầm Cầu Hai là khu đầm lớn nhất trong hệ thống đầm của phá Tam Giang, chu vi lên đến hơn 100km, nằm ở phía Nam - trên địa phận huyện Phú Lộc, Thừa Thiên Huế. Để đến được đây thì bạn có thể đi theo hai đường: một là từ ngã 3 sân bay Phú Bài, đi theo đường Phú Bài - Trường Hà hướng ra biển, gặp QL 49B rẽ phải khoảng 30km là cửa Tư Hiền, đó là nơi chụp đầm Cầu Hai đẹp nhất, hoặc là đi theo QL 1A từ Huế vào Đà Nẵng, đến khu vực Ga Cầu Hai sẽ thấy ngay bên trái là đầm Cầu Hai. Đi thêm khoảng 8km nữa là lại gặp QL 49B để rẽ trái vào cửa Tư Hiền được.
Suối Mơ
Suối Mơ hay nhiều người vẫn gọi thác Mơ là một địa điểm du lịch lý thú nằm tại thị trấn Lăng Cô. Suối Mơ đón du khách bằng rừng nguyên sinh trong lành và mát rượi. Đây đúng là một địa điểm thú vị cho các gia đình muốn trốn cái nắng miền Trung trong những ngày oi bức.
Hải Vân Quan
Ngày xưa, Hải Vân Quan là một vị trí chiến lược xung yếu của Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế về quân sự cũng như giao thông bằng đường bộ, đó là cửa ngỏ phía nam của vùng đất này. Hải Vân Quan nằm ở đỉnh đèo vắt qua một rặng núi đâm ngang ra biển từ dãy Trường Sơn. Đỉnh đèo Hải Vân ở độ cao 496m so với mực nước biển
Nam Đông
Thác Mơ
Thác Mơ được huyện Nam Đông đưa vào khai thác rất nhiều năm nay, song dường như cảnh vật nơi đây đang còn nguyên sơ. Bên từng dòng suối nhỏ, người ta dựng lên những căn chòi bằng tre nứa và gỗ trông rất mộc mạc, gần gũi với thiên nhiên để du khách có nơi nghỉ chân.
Thác Kazan
Thác Kazan là một trong những con thác có nguồn nước mát lành, chắt chiu từ lòng núi, khung cảnh hữu tình, hoang sơ và chưa chịu nhiều tác động của con người ở Nam Đông. Từ trung tâm thị trấn Khe Tre của huyện, rẽ trái vào xã Thượng Lộ, đi khoảng 5km nữa là vào thôn Dỗi, cũng là nơi có có thác Kazan hoang sơ.
A Lưới
A Nôr
Làng A Nôr cách trung tâm Tp Huế khoảng 60km, nơi có loại hình du lịch cộng đồng kết hợp với du lịch sinh thái - nghỉ dưỡng cùng với trải nghiệm văn hóa của đồng bào dân tộc. Cách làng không xa có thác cùng tên A Nôr với ba dòng thác có độ cao khác nhau, còn giữ nguyên nét hoang sơ thích hợp cho du khách đến tắm suối, khám phá núi rừng và nghỉ mát dịp cuối tuần.
Suối Pâr Le
Suối nguồn Pâr Le, xã Hồng Hạ (A Lưới), cách Huế khoảng hơn 50km theo hướng Quốc lộ 49, cách trung tâm A Lưới 25km. Đến với suối nguồn Pâr Le, du khách không chỉ được đắm mình trong dòng nước mát lạnh, ngắm rừng già với núi đá lô nhô, thưởng thức ẩm thực rừng núi nhiệt đới, mà còn nghe trong tiếng suối những câu chuyện cổ tích về Târ Roonh (tiếng đồng bào Cơ Tu nghĩa là “Tình yêu”).
Mốc Biên giới Việt Lào
Tuyến biên giới Việt Lào chạy dọc qua huyện A Lưới với các cột mốc từ 640 tới 676. Nếu là một người ưa thích khám phá các cột mốc, yêu biên giới các bạn không thể bỏ qua lịch trình này. Trên tuyến này có cột mốc 666 nằm tại cửa khẩu A Đớt, một trong các cửa khẩu giữa Việt Nam - Lào.
Các món ăn ngon tại Huế
Có thể nói, người Huế đến với ẩm thực không theo cái nghĩa sinh học giản đơn, mà thưởng thức bằng cả khứu giác, thị giác và cả thính giác. Những món ăn Huế dù là cao lương mỹ vị hay dân dã đơn sơ, đều làm cho ai đó một lần nếm qua phải xuýt xoa khen ngon đến mức “ngậm mà nghe”, để rồi lưu luyến mãi cái hương vị khó quên ấy.
Cơm Hến
Cơm hến là một đặc sản ẩm thực Huế. Cơm hến được trình bày dưới hình thức là cơm nguội trộn với hến xào qua dầu và gia vị, nước hến, mắm ruốc, rau bắp cải, tóp mỡ, bánh tráng nướng, mì xào giòn, ớt màu, đậu phộng nguyên hạt, dầu ăn chín, tiêu, vị tinh (bột ngọt, mì chính) và muối.
Món cơm hến có gốc gác được xem như là món ăn thân quen của người dân làng chài…từ địa phương gọi là dân vạn đò. Họ quanh năm sống trên thuyền đò, lênh đênh trên những nhánh sông với nghề hạ bạc, thu nhập không bao nhiêu. Chài lưới mò được dưới sông như tôm cá… là thực phẩm cao cấp, thường đem bán, còn tầm tầm rẻ tiền như ốc, hến… thì tận dụng tối đa cho bữa cơm thường ngày. Hến thì gần như lúc nào cũng đãi xúc được.
Muốn ăn cơm hến ngon các bạn có thể tới khu vực đường Hàn Mạc Tử hoặc tới Cồn Hến, Vĩ Dạ để thưởng thức.
Bún bò Huế
Bún bò Huế là một trong những đặc sản của xứ Huế, mặc dù món bún ở đâu cũng có. Tại Huế, món này được gọi đơn giản là “bún bò”. Các địa phương khác gọi là “bún bò Huế” để chỉ xuất xứ của món ăn này. Món ăn có nguyên liệu chính là bún, thịt bắp bò, giò heo, cùng nước dùng có màu đỏ đặc trưng. Trong nước dùng của bún, người Huế thường nêm vào một ít mắm ruốc, góp phần làm nên hương vị rất riêng của nồi bún bò Huế.
Muốn thưởng thức Bún bò ngon đúng chất Huế các bạn hãy tới khu vực đường Chi Lăng giao với Nguyễn Du. Ở đây có một số quán bún bò khả nổi tiếng như Bún bò O Liễu, bún bò Mụ Rớt, bún bò Bà Phụng …
Các loại bánh Huế
Bánh bèo
Bánh bèo gồm có ba phần chính là bánh làm từ bột gạo, nhân để rắc lên bánh làm bằng tôm xay nhuyễn, và nước chấm, một hỗn hợp mà nước mắm là thành phần chính và thường đổ trực tiếp vào bánh chứ không cần chấm. Thành phần phụ của bánh bèo thường là mỡ hành, đậu phộng rang giã nhỏ. Tuỳ theo địa phương, có những cách thêm bớt khác nhau cho món bánh này, ví dụ ở Sài Gòn thường bỏ đậu xanh, đồ chua, lại cho ăn kèm bánh đúc, bánh ít, bánh bột lọc.
Tại miền Trung, bánh bèo thường được phân ra làm hai loại là bánh bèo Quảng Nam và bánh bèo Huế. Bánh bèo Quảng Nam thường thì bánh to, dày, ăn với nhân là bột nấu nhão gồm có thịt, tôm băm, hẹ, khi ăn bỏ thêm ít hành phi, ớt băm. Bánh bèo Huế có khác chút ít, bánh mỏng hơn, có bột tôm sấy, khi ăn kèm theo da heo chiên giòn.
Bánh bột lọc
Bánh bột lọc là một loại bánh được từ bằng bột sắn được lọc lấy tinh bột, sau đó được luộc một phần nhỏ bột, nhồi kỹ và làm bánh. Nhân bánh thường bằng tôm trộn với gia vị, có thể làm nhân bằng thịt heo nạc hay hỗn hợp tôm - thịt heo. Sau khi vắt thành bánh, bánh được gói bằng lá chuối (hoặc có thể không gói) và hấp cách thủy. Đây là món ăn phổ biến ở các tỉnh Bắc Trung Bộ và đặc biệt là Huế.
Bánh Nậm
Bánh nậm là một loại bánh và là món ẩm thực truyền thống đặc trưng của xứ Huế, cùng với bánh bèo, bánh lọc. Đây là thứ bánh được làm từ bột gạo vừa ngon vừa có tính chất lành (người già, trẻ em, người ốm đều có thể ăn được). Ở Huế, bánh nậm còn được làm chay, chỉ có nhân đậu xanh, dùng cho ngày rằm, mồng một.
Bánh ram ít
Ở Huế có một thứ bánh kết hợp hai loại bánh khác nhau, ăn vào vừa giòn vừa dẻo, béo nhưng không ngấy bởi được chấm với thứ nước mắm chua ngọt, đó là bánh ram ít. Tưởng như bánh ram và bánh ít là hai thứ bánh không ăn nhập gì với nhau nhưng qua bàn tay tài hoa của người phụ nữ Huế, bánh ram ít đã trở thành một món ăn dân dã của Huế được du khách gần xa biết tiếng. Bánh ram ít có hai phần tách bạch rõ ràng: phần bánh ram và phần bánh ít. Tuy cách thức chế biến khác nhau nhưng cả hai phần bánh đều được làm từ gạo nếp.
Bánh Khoái
Bánh khoái đổ bằng bột gạo xay đánh sệt với nước và lòng đỏ trứng, sau đó thêm tiêu, hành, mắm, muối, tôm bóc vỏ, thịt bò (hoặc chim) nướng thái lát, mỡ thái lát nhỏ, giá sống. Khuôn bánh khoái làm bằng gang hình tròn, to bằng hai bàn tay trẻ con có cán cầm. Khi nào có khách ăn, nhà hàng mới bắc khuôn lên lò đổ bánh. Múc một muôi bột trứng đổ vào khuôn nóng đã tráng mỡ. Tiếng bột bén mỡ xèo xèo bốc lên quyến rũ, bột chín vàng rơm thì gắp một miếng thịt bò nướng, lát mỡ nhỏ, một vài con tôm, ít giá bỏ vào một nửa phần bánh, dùng đũa lật phần bánh còn lại úp lên thành hình bán nguyệt lật bánh cho vàng đều hai bên, xong bày ra đĩa.
Bánh ngon một phần nhờ nước lèo, thứ nước chấm chỉ các đầu bếp giỏi mới chế được. Ðây là bí quyết gia truyền, quyết định chất lượng, tạo nên hương vị thượng hạng của bánh khoái. Nước lèo Huế được chế biến rất cầu kỳ với hàng chục nguyên liệu như bột báng, gan lợn, mè (vừng), lạc rang… Quán bánh khoái Thượng Tứ tồn tại gần ba bốn chục năm nay, đã trở thành văn hoá ẩm thực Huế, làm say lòng du khách, thân thuộc với người Cố Ðô chẳng khác gì cơm hến, tiếng chuông chùa Thiên Mụ, con đò sông Hương.
Bánh ướt thịt nướng Kim Long
Bánh ướt là loại bánh tráng được làm bằng bột gạo có pha bột lọc, tráng mỏng hơn và dùng liền (nên gọi là bánh ướt chứ không phơi khô như bánh tráng). Thịt để nướng thường là thịt heo ba chỉ thái mỏng, ướp tiêu, hành, nước mắm, ngũ vị hương, mè (vừng). Thịt ướp sau vài giờ thì đem kẹp, nướng trên bếp than đỏ hồng cho đến khi đủ độ chín, dậy mùi thơm. Lấy thịt nướng này kẹp với rau thơm, giá, xà lách làm nhân để cuốn bánh ướt (Món này gần tương tự như kiểu món phở cuốn ở Hà Nội, có điều ở Hà Nội là cuốn với thịt bò).
Bánh ướt thịt nướng Kim Long ngon, hấp dẫn là nhờ chấm với loại nước chấm hết sức đặc biệt, được các chủ hàng chế biến từ nước mắm nguyên chất, đường, chanh, tỏi, ớt… như một bí quyết được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Chính nhờ hương vị nước chấm rất đặc trưng mà món ăn bình dân này của Kim Long được nhiều du khách biết đến, tạo thêm nét chấm phá trong bức tranh ẩm thực đa sắc màu của Huế.
Bún thịt nướng
Bún thịt nướng Huế ăn chung với dưa chuột chẻ, đồ chua, rau sống, lạc rang, hành phi… Tất cả được cho vào một cái tô và rưới nước lèo lên. Nhìn bát bún bạn sẽ bị chinh phục ngay bởi rất nhiều màu sắc, khi ăn bạn cảm nhận được rất nhiều hương vị cùng lúc như vị ngọt nhẹ nhàng, vị béo ngậy của đậu phộng, mè, vị chua thanh mát của rau củ, hay cay cay của ớt… Một sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc và hương vị.
Nem lụi
Đến Huế mà không ăn nem lụi thì thật là vô cùng đáng tiếc. Sự cuốn hút của món ăn nổi tiếng xứ Huế này có lẽ là đến từ miếng nem lụi được tẩm ướp bằng công thức đặc biệt để rồi sau khi nướng trên than hồng thơm lừng và nước lèo ăn nem lụi được pha chế từ hàng chục nguyên liệu khác nhau như dầu ăn, gan lợn, bột đao, đường, tương nước mắm, quế chi, hoa hồi và cốt dừa. Cuốn miếng nem nướng vàng cùng rau sống, khế, giá đỗ, dứa, lát chuối xanh thái mỏng chấm cùng nước lèo thì không gì ngon bằng.
Món chay ở Huế
Theo một số liệu thống kê không đầy đủ, ở Huế có tới 125 món ăn chay, điều đó đã nói lên sự phong phú và đa dạng về ẩm thực của mảnh đất Thần Kinh này. Ẩm thực Huế có nhiều phong cách khác nhau, được chia ra làm nhiều loại như: Ẩm thực Cung đình, ẩm thực dân gian… Trong đó còn một loại phong cách ẩm thực khá đặc biệt nơi đây đó là Ẩm thực chay. Sở dĩ ở Huế ẩm thực chay rất phát triển là do nơi đây chính là trung tâm văn hóa Phật giáo của cả nước.
Người Huế cho rằng ăn chay là lành tính, điềm đạm cho nên ai cũng muốn ăn chay để dưỡng tâm tính. Thoạt đầu ăn chay chỉ được giới hạn trong phạm vi những ngôi chùa, hoặc những gia đình theo đạo Phật, nhưng ngày nay cơm chay không còn là “di sản” của nhà chùa nữa mà nó đã lan truyền ra dân gian và trở thành một sản phẩm du lịch. Trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế, Huế có nhiều đổi thay nhưng tục ăn chay vẫn được lưu truyền và phổ biến rộng rãi trong phần lớn cư dân Huế.
Bánh canh Huế
Bánh canh Huế được nấu bằng bột mì với cá và da heo, hoặc với thịt băm nhỏ vo viên… Công đoạn chế biến đơn giản và nhanh chóng: nước dùng đun sôi trong nồi, bột nhào xong cán thật mỏng quanh một ống nhôm tròn làm thớt. Dùng dao xắt thành từng con nhỏ, rơi vào nồi nước nóng. Khi bột vừa chín tới, vớt ra tô, chế nước dùng có thịt heo, cá và hành thái nhỏ, chêm gia vị vào rồi ăn nóng.
Bánh canh Nam Phổ bắt đầu bán từ buổi chiều khoảng 13 giờ trở đi, hàng bánh canh do một phụ nữ gánh đi bán dạo (ngày trước người bán trẻ hay già đều đội nón Huế, mặc áo dài). Xuất phát từ Nam Phổ, lên Vỹ Dạ, qua chợ Ðông Ba, vào Thành Nội… Trong hàng bánh canh, còn bán cả bánh lọc, bánh ít, bánh nậm v.v… là những thứ bánh đặc sản Huế. Bánh canh truyền thống Nam Phổ làm bằng bột gạo (xưa không có bột mì), lại chỉ dùng tôm giã nhuyễn trộn trứng. Tô bánh canh hình dẹt, nước dùng trong và sền sệt, thơm phức…
Các loại chè Huế
Huế không chỉ thu hút bởi vẻ đẹp trầm mặc, rêu phong của các đền đài, lăng tẩm, mà khi đến đây, du khách còn bị cuốn hút bởi kho tàng văn hóa ẩm thực phong phú, đa dạng bậc nhất Việt Nam. Trong đó, chè Huế được coi là món ăn “nằm lòng” của nhiều du khách khi đến với vùng đất cố đô. Khắp các con hẻm ở thành phố Huế, đi chừng vài trăm bước lại bắt gặp một gánh chè rong. Và dẫu là một gánh chè rong không tên, thì cái tinh tế, khéo léo của những ly chè khoai môn sánh mịn, những viên bột lọc dẻo mềm, ly chè bắp thơm thơm vị ngọt non tơ… cũng hơn hẳn ly chè được gọi chung bằng cái tên chè Huế mà ta ăn ở bất cứ đâu khác.
Chè bột lọc heo quay
Chè bột lọc có hình thức viên tròn nhỏ, làm bằng bột năng, khi luộc chín, viên bột từ màu trắng đục thành màu trắng trong, ăn với nước đường và đây là món chè luôn được ăn nguội hay nóng ấm chứ không bao giờ ăn lạnh. Chè bột lọc thịt quay được chế biến từ những miếng thịt heo quay, cắt vuông bằng quân súc sắc nhỏ (có cả bì lợn, cả thịt) bọc ngoài là màng bột nếp, rồi cho vào nước đường đun thành chè. Chè này có lẫn cả vị ngọt và mặn nên ăn không ngấy.
Chè bắp
Ở Huế có món Chè bắp Cồn Hến ngon chẳng nơi nào có được. Vùng đất này có bãi bồi vài chục ha, người dân trồng bắp gần như quanh năm. Bắp ở Cồn Hến thơm ngon vì được trồng trên lớp phù sa dầy được bồi đắp qua mỗi trận lụt.
Chè hạt sen
Là loại chè thanh cao, được chế biến từ hột sen hồ Tịnh Tâm. Chè sen nấu theo kiểu Huế được đem hấp chín, sau đó nấu chung với nước đường cát trắng hay đường phèn trong vắt cho đến khi sôi nhẹ. Vị ngọt của đường đủ thấm vào hột sen là bắc ra ngoài bếp. Để được nồi chè ngon, người nấu phải túc trực canh chừng để lửa cháy vừa phải, tay khuấy, trộn thật nhẹ nhàng, thời gian cũng chỉ vừa đủ để hạt sen “không già, không non”. Nấu già, hột sen sẽ mất hương thơm tự nhiên. Nấu non, hương sen sẽ không tỏa ngát.
Chè khoai tía
Món này rất nhiều vị khách ưa thích vì màu sắc và hương vị. Chè được nấu từ khoai môn tím, rồi nấu chung với nước dừa và để nhỏ lửa đến khi vừa sánh là được. Thêm đường sao cho vừa nhưng không để mất đi mùi thơm của nước dừa. Chè có vị thơm và ngọt thanh.
Chè đậu
Đây cũng là những loại chè có xuất xứ lâu đời ở Huế. Chè được nấu mềm nhưng vẫn giữ được nguyên hạt đậu. Chè dẻo thêm đậu phụng rang giã nhỏ và nước dừa. Nước cốt dừa cho vào sau làm tăng vị béo cho ly chè, đậu phụng rang phảng phất hương vị thơm.
Bánh chưng Nhật Lệ
Đây là món ăn nổi tiếng ở Huế và có xuất xứ từ con phố Nhật Lệ trong thành Nội, nơi tập trung hàng chục lò làm bánh. Bánh thơm dẻo, ăn rất khoái khẩu do sự kết hợp nhuần nhuyễn mùi vị giữa nhân đậu, thịt (mỡ và nạc) với gạo nếp và các loại gia vị như tiêu, hành.
Bánh ngũ sắc
Bánh ngũ sắc hay còn gọi là bánh in, họ nhà bánh này rất nhiều chủng loại: bánh măng, bánh bột nếp, bánh bột huỳnh tinh, bánh đậu xanh, bánh sen tán… mỗi loại bánh mang đúng loại bột như tên gọi của nó. Bánh được gói bằng giấy gương đủ màu sắc nhưng có quy định cụ thể, ví như màu xanh hy vọng là bánh đậu xanh, màu tím hoàng là bánh bột nếp… và được ép, đức thành khuôn, mặt đáy của bánh khó khắc các hình chữ Thọ, Phúc, Lộc và gói trong giấy ngũ sắc. Đây là loại bánh để dùng trong ngày Tết, phục vụ việc thờ cúng và đãi khách. Do giá trị rẻ nên được rất nhiều người ưa chuộng.
Hiện nay, ở Huế có hai tiệm bán bánh in ngon nổi tiếng là tiệm Hồng Phúc ở đường Phan Đăng Lưu, tiệm Bà Bốn ở đường Nguyễn Thiện Thuật, đặc biệt vào các ngày rằm, mồng một tiệm bánh Bảo Thạnh ở đường Trần Hưng Đạo cũng có bán loại bánh này.
Đặc sản Huế mua về làm quà
Tôm chua Huế
Tôm chua đúng “điệu” phải được làm từ những con tôm nước lợ thật tươi, nhất là tôm từ Cầu Hai đưa lên thì tuyệt. Chọn những con tôm đều nhau và tương đối to. Tôm được ngắt đầu, rửa sạch, ngâm một lát trong rượu. Sau đó vớt ra để ráo, trộn đều với các thứ phụ gia: riềng, tỏi, ớt đỏ, măng non, xôi nếp, nước mắm ngon. Trong các thứ phụ gia thì riềng đóng vai trò quan trọng nhất nên phải dùng nhiều hơn cả. Tỏi to thái mỏng, ớt thái vát dài và mỏng, riêng và măng thái thành sợi mảnh. Tôm được ủ tốt nhất là trong vại sành. Khi nào chín đem ra trộn với một ít mật ong. Có thể gia tăng thêm ít riềng rồi đóng vào các lọ thuỷ tinh hoặc lọ nhựa. Như vậy trong một lọ tôm chua ta thấy đủ các sắc màu: trắng, vàng, hồng, đỏ; đủ các vị: ngọt, béo, bùi, cay, chua, đắng, vừa nóng lại vừa mát, nghĩa là vừa có dương, vừa có âm. Tất cả hoà trộn tạo nên một mùi thơm đầy quyến rũ. Quá trình ủ tôm kéo dài từ 7-10 ngày, mà phải để trong phòng sạch sẽ, thoáng mát. Nếu cầu kỳ hơn, người ta có thể chôn xuống đất để giữ nhiệt độ ổn định cho quá trình lên men. Nhiệt độ càng ổn định, tôm càng thơm, càng ngọt.
Mè xửng
Mè xửng là loại kẹo ngọt dẻo, được làm từ mạch nha pha trộn lẫn với dầu phụng (dầu từ đậu phụng), có mè bao phủ xung quanh kẹo, được cắt từng miếng vuông nhỏ (bao giấy bóng nhỏ) gói trong hộp. Kẹo mè xửng là một trong những đặc sản đã trở thành biểu tượng văn hóa của Huế.
Một số lịch trình du lịch Huế
Huế - Đà Nẵng - Hội An
Lịch trình sẽ được sắp xếp từ ngày bắt đầu ở Huế, tùy thuộc vào địa điểm sinh sống các bạn chủ động lên kế hoạch trước để tới Huế đúng ngày nhé. Lịch trình này phù hợp với việc thuê xe máy ở Huế để chạy do đi khá nhiều địa điểm. Các bạn có thể cắt bớt lịch trình để phù hợp hơn với kế hoạch của riêng mình.
Ngày 1: Khám phá hoàng thành Huế
Sáng dậy loanh quanh khách sạn tìm xem có hàng bún bò nào không, làm một tô để ăn sáng, làm một ly cafe rồi bắt đầu khám phá Huế. Từ khách sạn, thuê xích lô đi qua cầu Trường Tiền để sang khu hoàng thành Huế.
Mua vé khám phá đại nội, do khu vực này khá rộng nên có thể mất vài tiếng hoặc nguyên một buổi sáng để có thể khám phá hết hoàng thành. Sau khi kết thúc, ra ngoài tìm một số quán nổi tiếng thưởng thức các món ăn ngon tại Huế. Gần hoàng thành có quán Lạc Thiện khá nổi tiếng với món bánh khoái Thượng Tứ.
Đầu giờ chiều từ trung tâm Tp Huế thuê xe máy để đi chùa Thiên Mụ, đoạn đường chạy dọc sông Hương vô cùng mát mẻ và đẹp. Dành khoảng 1 tiếng để tham quan và chụp ảnh ở chùa, từ đây chạy thêm khoảng gần chục km nữa sẽ đến Huyền Không Sơn Thượng, ngôi chùa nằm trên núi với cảnh quan rất đẹp. Từ Huyền Không Sơn Thượng quay lại Huế có đi qua một số nhà vườn, nếu quan tâm các bạn có thể ghé thăm.
Tối quay lại trung tâm Tp Huế, thưởng thức các loại bánh đặc trưng của Huế, nếu đi vào dịp cuối tuần có thể dạo chơi quanh chợ đêm, uống beer, nghe nhạc
Ngày 2: Phá Tam Giang - Nhà thờ Phủ Cam - Cầu Ngói Thanh Toàn
Sáng dậy ăn sáng, uống cafe rồi khởi hành đi Phá Tam Giang. Nơi này cách trung tâm Tp Huế khoảng hơn 30km, buổi trưa ở lại ăn uống tại các nhà hàng trên phá, nghỉ ngơi rồi chiều quay lại Huế.
Chiều quay lại trung tâm Tp Huế, đi thăm nhà thờ Phủ Cam rồi tiếp đến cầu ngói Thanh Toàn, đây là 2 địa điểm khá đẹp ở Huế, không quá xa nên hoàn toàn có thể đi được trong một buổi chiều.
Ngày 3: Bạch Mã - Lăng Cô
Ngày này sẽ đi về phía Bạch Mã, Lăng Cô, tuy nhiên hành trình khá xa nên các bạn cần đi sớm để kịp quay về trung tâm tp Huế.
Sáng dậy ăn sáng, khởi hành theo hướng QL 1A về hướng Đà Nẵng, đến đoạn gần Đá Bạc thì rẽ vào đi Hồ Truồi, đến đây cần đi thêm một chuyến đò nữa để sang được Thiền viện Trúc lâm Bạch Mã. Thiền viện khá đẹp với lưng tựa vào dãy núi Bạch Mã, mặt hướng xuống phía hồ Truồi.
Sau khi khám phá Thiền viện, quay trở lại hướng QL 1A để đi Vườn Quốc gia Bạch Mã, trên đường đi có đi qua đầm Cầu Hai, đầm lớn nhất trong hệ đầm Phá Tam Giang.
Chiều quay trở lại Huế nghỉ ngơi.
Ngày 4: Huế - Đà Nẵng
Từ Huế vào Đà Nẵng có thể đi bằng ô tô hoặc tàu hỏa, thời gian đều chỉ khoảng 3 tiếng. Tuy nhiên, nếu muốn được chiêm ngưỡng cảnh đẹp tuyệt vời của vịnh Lăng Cô cùng những đoạn bờ biển tuyệt đẹp của Đà Nẵng, hãy lựa chọn phương án đi tàu hỏa. Tàu khởi hành từ Huế vào khoảng 10h30 và đến Đà Nẵng lúc 13h30, các bạn có thể mua vé tàu online và ra thẳng ga để in vé lên tàu.
Ngày 5++: Tùy thuộc vào thời gian của mình, các bạn sắp xếp khám phá Đà Nẵng, hay khám phá Hội An cho phù hợp.
Tìm trên Google
- kinh nghiệm du lịch Huế 2021
- du lịch Huế tháng 8
- tháng 8 Huế có gì đẹp
- review Huế
- hướng dẫn đi Huế tự túc
- ăn gì ở Huế
- phượt Huế bằng xe máy
- Huế ở đâu
- đường đi tới Huế
- chơi gì ở Huế
- đi Huế mùa nào đẹp
- địa điểm chụp ảnh đẹp Huế
- homestay giá rẻ Huế