Cảm nhận 8 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Or you want a quick look:

Cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn để thấy tâm trạng cô đơn buồn tủi của người phụ nữ, cùng khung cảnh hiu quạnh của người thiếu phụ khi phải xa chồng. Trong bài viết dưới đây, hãy cùng DINHNGHIA.COM.VN tìm hiểu, phân tích cũng như cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.

Mở  bài: Tình yêu luôn là chủ đề muôn thuở trong văn học và cũng là nguồn cảm hứng bất tận của thi nhân. Nếu tình yêu trong thời bình gắn với những ngọt ngào, thơ mộng, thì tình yêu trong thời chiến lại gắn liền với sự chờ đợi mỏi mòn và sự biệt ly đau đớn. Nếu thời Đường ở Trung Quốc, Vương Xương Linh oán ghét chiến tranh phi nghĩa, cảm thông cho tâm trạng người thiếu phụ phòng khuê mà viết nên những vần thơ xúc động:

“Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu

Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu

Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc

Hối giao phu tế mịch phong hầu”

(Khuê oán – Vương Xương Linh)

Thì trong thời Lê ở nước ta, Đặng Trần Côn đã cảm thông sâu sắc trước số phận những người phụ nữ có chồng đi lính mà làm nên tuyệt tác “Chinh phụ ngâm”. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” thuộc tác phẩm trên đã chạm đến tận cùng trái tim người đọc khi tái hiện hoàn cảnh cô độc, nỗi nhớ thương da diết của người phụ nữ khi có chồng ra trận cùng với ước mơ về hạnh phúc đoàn tụ. Điều ấy được đặc tả trong 8 câu đầu đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”.

Nội dung chính bài viết

Tìm hiểu tác giả và trích đoạn Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Trước khi cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cũng như toàn bộ tác phẩm, người đọc cần nắm được những nét chính về tác giả Đặng Trần Côn cũng như trích đoạn này.

Sơ nét về tác giả Đặng Trần Côn

Đặng Trần Côn chưa rõ năm sinh năm mất. Căn cứ vào một số ghi chép có thể xác định ông sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Quê của Đặng Trần Côn ở làng Nhân Mục- Nhân Chính- Thanh Xuân- Hà Nội. Ông là người thông minh, tài hoa và hiếu học.

Ngoài tác phẩm chính Chinh phụ ngâm, ông còn làm thơ và phú bằng chữ Hán. Nhưng có lẽ tác phẩm ghi dấu ấn tên tuổi Đặng Trần Côn chính là tác phẩm Chinh phụ ngâm.

Giới thiệu trích đoạn tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ  

“Chinh phụ ngâm” ra đời vào khoảng thế kỷ XVIII, đầu đời Lê Hiển Tông, khi phong trào khởi nghĩa nông dân diễn ra liên miên, triều đình điều binh lính đi dẹp loạn. Điều đó dẫn đến việc nhiều gia đình rơi vào cảnh ly biệt kẻ ở người đi, vợ mất chồng, mẹ mất con.  Số phận và bi kịch của những con người nhỏ bé trong cái xã hội phong kiến đang đứng bên bờ vực thẳm ấy đã lay động trái tim của Đặng Trần Côn.

Trong khúc ngâm viết bằng chữ Hán của ông có 476 câu thơ, làm theo thể trường đoản cú. Khi dịch sang chữ Nôm, dịch giả đã chuyển tác phẩm về thể thơ song thất lục bát, dùng âm điệu réo rắt, thiết tha của thể thơ dân tộc góp phần thể hiện tình cảnh và tâm trạng của người phụ nữ có chồng đi lính. Bản dịch hiện tại tương truyền của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm hoặc có người cho rằng đây là bản dịch của Phan Huy Ích.

Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748): Hiệu là Hồng Hà nữ sĩ; quê ở Kinh Bắc. Bà nổi tiếng tài sắc, tính cách khác thường. Ngoài bản dịch “Chinh phụ ngâm”, bà còn là tác giả của tập truyện chữ Hán “Truyền kì tân phả”.

Phan Huy Ích (1750 – 1822), tự là Dụ Am là người thuộc trấn Nghệ An sau dời đến Hà Tây. Ông đỗ tiến sĩ năm 26 tuổi. Tuy chưa xác định cụ thể, nhưng dù của dịch giả nào thì tính đến thời điểm hiện tại, đây là bản dịch thành công nhất. Tác phẩm là tiếng nói oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa và thể hiện khát vọng hạnh phúc lứa đôi.

Chính vì ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt như thế nên tác phẩm này vừa mang giá trị hiện thực vừa mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” nằm từ câu 193 đến 216 miêu tả tâm trạng cô đơn, đau xót của người chinh phụ…

Cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Những hành động đơn điệu lặp đi lặp lại của người chinh phụ

Khi cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, ta thấy sau khi tiễn chồng ra trận, người chinh phụ bơ vơ chốn khuê phòng vắng lặng, lạnh lẽo, nỗi khổ tâm của nàng được bộc lộ qua hành động và ngoại cảnh.

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”

Không gian “hiên vắng”, “ngoài rèm”, “trong rèm” là không gian chật hẹp, tù túng vắng lặng và hiu hắt chỉ có vang vọng tiếng bước chân của người lẻ bóng. Đây là một không gian nghệ thuật đã góp phần thể hiện tâm trạng của người chinh phụ. Không gian vắng lặng lúc này là để giãi bày nỗi lòng mình và càng tô đậm thêm sự lẻ bóng của nàng.

“Hiên vắng” bởi lẽ không có người quan trọng nhất kề bên nàng lúc này. Tâm trạng người chinh phụ cô đơn, lẻ loi trải dài khắp không thời gian. Ở mọi không gian, khoảnh khắc người chinh phụ đều chỉ một mình một bóng. Người chinh phụ dạo bước trong hiên vắng, vừa đi vừa thầm đếm bước chân mình, như đếm từng ngày chồng đi.

Cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, ta thấy những bước chân lặng lẽ của nàng nặng trĩu u sầu, đong đầy thương nhớ, như bước chân người cung nữ trong “Cung oán ngâm” của Nguyễn Gia Thiều: “Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ”. Sự bồn chồn, khắc khoải, mong chờ được khắc họa qua những hành động lặp đi, lặp lại, hết đứng lại ngồi, hết ra ngoài hiên rồi lại bước vào phòng, kéo rèm trông tin chim thước rồi lại rủ rèm. Những hành động vô nghĩa ấy được lặp đi lặp lại trong vô thức, nàng chẳng còn bận tâm mình đang làm gì bởi tâm trí nàng giờ dồn hết vào người chồng đang nơi chiến trận biên ải xa xôi.

Tâm trạng của người chinh phụ qua những mong ngóng mỏi mòn

“Ngoài rèm thước chẳng mách tin,

Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”

Khi cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, ta thấy không gian ngày càng tù túng. Với nàng, không gian lúc này chỉ được xác định bằng vị trí của tấm rèm “trong rèm”, “ngoài rèm” mà thôi. Không gian càng thu hẹp như tâm trạng của người chinh phụ lúc này ngày càng chìm trong cô độc. Nàng khát khao được đồng cảm, sẻ chia mong tin chim thước đến báo tin chồng trở về nhưng chim thước nào có đến, mong ngọn đèn hiểu thấu và soi tỏ nỗi lòng mình nhưng đèn lại vô tri vô giác không thể cùng người an ủi, sẻ chia nỗi buồn cô lẻ.

Nàng nhận ra rằng càng hi vọng, mòn mỏi trông chờ nàng càng hụt hẫng, tuyệt vọng. Khát khao sum vầy đoàn tụ, khát khao hơi ấm gia đình của nàng càng khiến nàng đau đớn, thất vọng. Câu hỏi tu từ và điệp từ “rèm” lặp lại ba càng đẩy nàng vào bế tắc, cái bế tắc của xã hội phong kiến suy tàn, của triều đình loạn lạc khiến niềm tin của con người về tình yêu, hạnh phúc không còn giá trị. Có thể thấy, cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ khiến ta đồng cảm và thương cảm xiết bao về số phận cũng như tâm trạng mòn mỏi đợi chồng của những người phụ nữ xưa.

Sự cô đơn tuyệt vọng không người sẻ chia của người chinh phụ

Người chinh phụ hết mong ngày, lại mong đêm, khi bóng tối cô đơn tịch mịch kéo xuống bao trùm lấy nàng, nàng chỉ có thể làm bạn với bóng đèn. Nhưng ngay ở câu thơ sau nàng lại phủ nhận:

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết,

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.”

Bởi đèn vô tri chỉ có thể soi tỏ bóng dáng cô quạnh của nàng nhưng làm sao có thể chia sẻ được. Tấm lòng này chỉ có một mình mình biết, một mình mình hay. Trong quá trình cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, ta thấy từ “bi thiết” là một động từ mạnh cực tả cảm giác cô đơn và sự khát khao được đồng cảm của chinh phụ trong đêm vắng.

Điệp ngữ bắc cầu “Đèn biết chăng” – “đèn có biết” đã góp phần cho thấy biên độ nỗi nhớ trong nàng ngày càng tăng. Hình ảnh ngọn đèn không chỉ làm nổi bật sự cô quạnh khát khao chia sẻ của nàng mà còn là nhân chứng cho thấy người chinh phụ đã thao thức canh dài. Đặng Trần Côn mượn cây đèn đang tàn mà ẩn dụ sự trôi đi nhanh chóng của thời gian, sự tàn lụi, héo hon của kiếp người. Khi cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, ta bỗng nhớ đến ngọn đèn với nỗi nhớ tình yêu ấy trong bài ca dao “Khăn thương nhớ ai”

“Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt?

Mắt thương nhớ ai

Mắt ngủ không yên

Đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi không yên một bề”

(Ca dao)

Hình ảnh ngọn đèn trong bài ca dao cũng nói về nỗi nhớ của cô gái trong tình yêu và những lo lắng băn khoăn về tương lai. Thế nhưng, nếu cô gái trong bài ca dao trên nỗi lo lắng chỉ dừng lại ở liệu mai sau có cái kết viên mãn cho mối tình mới chớm thì nỗi lo của người chinh phụ là sự sinh ly tử biệt. Bởi lẽ chiến tranh xảy ra, mấy người đi có mấy người trở về?. Khát khao thấu hiểu chia sẻ để rồi nhận ra thực tại phũ phàng không ai có thể cùng nàng chia sẻ đồng cảm. Nỗi nhớ cứ thế mà tăng dần và nàng cũng càng thêm cô quạnh…

“Buồn rầu nói chẳng nên lời

Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

Từ thuần việt “buồn rầu” đã diễn tả chân thật và sinh động nỗi buồn của người chinh phụ trong giây phút này. “Nói chẳng nên lời” vì nỗi buồn miên man không thể diễn tả được hay vì nói ra cũng chẳng ai sẽ chia. Nàng giờ đây một mình cô đơn không chỉ trong không gian mà còn trong cả tâm tư. Khi cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, người đọc cũng nhận ra cụm từ “hoa đèn” cho thấy đêm đã gần tàn, người chinh phụ đã ngồi trước bóng đèn ấy rất lâu. Nỗi nhớ trào dâng như chính tâm trạng của những cô gái trong câu ca dao:

“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”

(Ca dao)

Hay những vần ca dao:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

(Ca dao)

Nhưng với những cô gái trong ca dao trên đó là nỗi nhớ tương tư khát khao gặp mặt trong tình yêu. Còn đối với người chinh phụ đó không đơn thuần là nỗi nhớ mà còn là sự bất an, lo lắng cho người chinh phu. Bởi giữa thời buổi loạn lạc, nhà có người đi lính, ‘họa có mấy khi có người về báo tin chiến trận.

Như người xưa từ nói “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?”. Không nghe tin chồng nàng chỉ có thể chờ đợi trong lo sợ, nàng như chết dần chết mòn vì sự bi thiết trong lòng, sự bi thiết đến từ nỗi chờ mong trong cô lẻ, triền miên. “Bóng người” ở đây chính là bóng người chinh phụ chờ chồng trông nhớ thương hay chính là hình ảnh người chinh phụ héo hon, tàn tạ chờ chồng giống như cái bóng mỏi mòn, như hoa đang lụi tàn dần. Khi cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, ta cũng thấy tâm trạng ấy phần nào giống với nàng Kiều

“Người về chiếc bóng năm canh

Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi”

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Như vậy, các yếu tố ngoại cảnh đã nói hộ cho nỗi lòng vò võ của chinh phụ ngóng chồng đi chinh chiến. Ngọn đèn tắt, bỏ lại người chinh phụ cô quạnh trong đêm dài tịch mịch u sầu. Nỗi cô đơn tràn ngập không gian và kéo dài vô tận theo thời gian luôn đeo đẳng, ám ảnh nàng. Cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng hưởng với nỗi sầu miên man của người chinh phụ, khiến nàng càng đớn đau, sầu tủi. Có thể thấy rằng, khi cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, ta cũng nhận ra số phận cùng nỗi cô đơn đến cùng cực của những người phụ nữ…

Nhận xét khi cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Khi cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, ta thấy được những cung bậc cảm xúc khác nhau của nỗi cô đơn, nỗi đau buồn khổ ở người chinh phụ khao khát được sống trong hạnh phúc lứa đôi. Đồng thời tác giả cũng gửi gắm giá trị nhân đạo cao cả của mình vào trong tác phẩm. Qua đó, cũng tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã khiến cảnh vợ xa chồng, con xa cha. Dịch giả đã vận dụng một cách nhuần nhị thể thơ song thất lục bát kết hợp với cách dùng từ độc đáo, các biện pháp nghệ thuật đặc sắc đã góp phần làm nên thành công của bản dịch này.

Khi cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, ta cũng nhận thấy từ ngữ thuần Việt được sử dụng khéo léo không chỉ diễn tả được khung cảnh thiên nhiên mà còn diễn tả tinh tế tâm trạng chờ đợi mỏi mòn của người chinh phụ. Bút pháp tả cảnh ngụ tình được vận dụng linh hoạt, sử dụng thành công không gian và thời gian nghệ thuật cho thấy nỗi nhớ trải dài của người chinh phụ. Với sự cộng hưởng của cái tài và cái tâm, tác phẩm đã thể hiện thành công tâm trạng người chinh phụ chờ chồng trong sự héo hon, và sự dần trôi của thanh xuân…

Kết bài: Văn học là người thư ký trung thành của trái tim. Chỉ với 8 câu đầu, tác phẩm đã chạm vào trái tim người đọc, gieo vào đó những cảm xúc sâu lắng về nỗi buồn, sự cô đơn của người chinh phụ trong cảnh chờ đợi mỏi mòn. Qua đó, ta thấy được trái tim nhân đạo của người nghệ sĩ. Chính điều đó đã góp phần tạo nên sức sống cho tác phẩm. Và “Chinh phụ ngâm” xứng đáng với lời nhận xét “Thời gian có thể phủ bụi một số thứ. Nhưng cũng có những thứ càng rời xa thời gian, càng sáng, càng đẹp”. (Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên).

Xem thêm >>> Phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm

Xem thêm >>> Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua một số tác phẩm  

Xem thêm >>> Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ [HAY NHẤT]

Dàn ý cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Mở bài cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi

  • Đôi nét về tác giả Đặng Trần Côn, tác phẩm Chinh phụ ngâm, đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cũng như giá trị và nội dung của 8 câu đầu.
  • Nêu hình ảnh người phụ nữ xưa điển hình, dẫn đến người phụ nữ trong trích đoạn Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.

Thân bài cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi

  • Người thiếu phụ với những hành động đơn điệu lặp đi lặp lại.
  • Tâm trạng mong ngóng mỏi mòn của người thiếu phụ.
  • Nỗi cô đơn và tuyệt vọng không người tâm sự của người thiếu phụ.

Kết bài cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi

  • Khẳng định lại ý nghĩa cùng với giá trị của đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, đặc biệt là ý nghĩa của 8 câu đầu đối với đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung.
  • Tóm lược lại cuộc đời và số phận bạc bẽo của người phụ nữ trong xã hội xưa.
  • 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cũng như toàn bộ tác phẩm cũng cho thấy cái tâm và cái tài của nhà thơ, đồng thời cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.

Như vậy, khi cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã cho người đọc thấy được tâm trạng cô đơn hiu quạnh cũng như số phận bạc bẽo của người phụ nữ.  Về nghệ thuật, đoạn thơ với thể thơ song thất lục bát, cách dùng từ và hình ảnh ước lệ đã thể hiện một cách tinh tế các cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau trong nỗi cô đơn buồn khổ của người chinh phụ – một người luôn khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. Đồng thời trích đoạn cũng cho thấy tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa.

Tu khoa: dàn ý cảm nhận 8 câu đầu tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ; cảm nhận 8 câu giữa tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ; cảm nhận 8 câu cuối tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ; tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 8 câu giữa; cảm nhận 16 câu đầu tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ; hoàn cảnh sáng tác bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ; cảm nhận 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

See more articles in the category: wiki
READ  Tìm m để 3 đường thẳng đồng quy – Chuyên đề ba đường thẳng đồng quy

Leave a Reply