Or you want a quick look: Tổng quan về sao Cự Môn trong Tử Vi
Sao Cự Môn thuộc Âm Thủy, hành Kim. Là sao thứ hai thuộc Bắc Đẩu, tính thuần âm, hóa khí là Ám tinh, chủ về miệng lưỡi, lời ăn tiếng nói, thị phi khẩu thiệt. Gọi là “ám tinh”, chẳng phải nói Cự môn không có ánh sáng, mà là nói nó giỏi che mất ánh sáng của người khác, cho nên gọi là “ám”. Cự Môn là Thần chuyên trông coi về Phẩm chất của vạn vật. Tức là chuyên về đánh giá mặt tốt, mặt xấu của vạn vật.
Tổng quan về sao Cự Môn trong Tử Vi
Che mất ánh sáng của người khác là sắc thái đặc biệt nhất của sao Cự Môn. Có những người thao thao bất tuyệt biến người khác đều thành thính giả. Cách biểu hiện cái “tôi” như vậy là sắc thái đặc biệt của Cự Môn. Hơn nữa, Cự Môn còn thích tiết lộ chuyện riêng tư của người khác. Cho nên cổ nhân nói đặc tính của Cự Môn là “gây chuyện thị phi sau lưng”.
Bạn đang xem: Sao cự môn trong tử vi
Cự Môn còn có một sắc thái đặc biệt khác là đa nghi. Cổ nhân nói “ở người thì chủ về ám muội, đa nghi thị phi”. Đây là do Cự Môn đánh giá người khác phần nhiều thiên về mặt xấu, cách nhìn đối với người khác rất phiến diện, đương nhiên có nhiều nghi ngờ.
Người có sao Cự Môn tọa thủ cung Mệnh ánh mắt nhìn đoan chính, vẻ mặt nghiêm túc, giọng nói cao mà thanh, hành động nhanh nhẹn. Thuở trẻ cao gầy, trung niên phát tướng, nhìn vẻ bề ngoài toát ra hình thức là người phúc hậu lương thiện. Người Cự Môn hay chủ quan lại tự tin, thường hay tỏ thái độ bất mãn với hiện tại, nên thích bình phẩm, đánh giá sự việc, con người. Vui buồn thiện ác thường không biểu hiện lộ ra ngoài mặt.
Tính cách người mệnh Cự Môn
Cự Môn cực kỳ thích nghiên cứu, đào sâu chuyên môn nên thường có tầm hiểu biết rộng, có sáng kiến. Khả năng biểu đạt lại rất tốt, lập luận đanh thép. Có xu hướng sống thanh bạch, giản đơn, chú tâm công việc.
Cự Môn chủ nói năng, đi với sao tốt thì không nói quá nhiều nhưng có tài giao tiếp. Phù hợp với những ngành nghề cần giao tiếp, đàm phán, dùng lời nói kiếm tiền. Cự Môn có sở trường xử lý các mối quan hệ công cộng, nên có khả năng trở thành nhà ngoại giao, luật sư, chính trị gia, giảng viên, ca sỹ, MC, truyền thông marketing. Mặt tiêu cực của Cự Môn là rất dễ gặp chuyện cự cãi, đôi co, buôn chuyện thị phi. Lời nói quyền biến lấn lướt người khác.
Sao Cự Môn hóa khí là ám tinh, nên con người họ thâm trầm khó đoán. Họ cũng mất nhiều thời gian để tìm đính hướng, lẽ sống trong đời. Ám tinh Cự Môn còn chủ về lo lắng buồn phiền, vất vả. Tam hợp chính chiếu có Cự Môn đều chủ về tuổi trẻ vất vả. Họ phải phấn đấu gian khổ rất nhiều mới có được thành tựu.
Cự Môn – phùng cát dã cátCự Môn là sao có tính chất biến thiên lớn, khi đi với tổ hợp sao khác nhau thì tính chất khác nhau.
Cự Môn hội Hóa Lộc, Lộc Tồn tối vi thượng cách tăng sự thành công của Cự Môn. Song Lộc có khả năng áp chế được yếu điểm của Cự Môn. Ngoài ra Song Lộc còn tăng cường mức độ hoạt ngôn, quyền biến. Cự Môn còn ưa hội thêm lục cát tinh thì có thể phú quý, làm giáo viên, giảng viên giỏi, nhiều học trò hay. Một số trở thành các nhà ngoại giao có tài hùng biện, chính trị gia tài ba. Nếu làm công ăn lương thì đảm đương những chức vụ quan trọng. Thêm Hóa Khoa thường chủ danh tiếng có khả năng làm diễn giả, diễn thuyết trước đám đông.
Gặp các sao Liêm trinh, sao Tham lang, Long trì, Phượng các, Thiên tài, thì có thể hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Thêm Văn xương, Văn khúc, Hồng loan, Đào Hoa, Thiên hỉ, Thiên diêu thì càng dễ thành danh. Nhưng nếu Nhật Nguyệt tối thì lời nói vòng vo, lắt léo, ngôn từ ba hoa không thực.
Cự Môn – phùng hung dã hungCự Môn thủ mệnh có thể nhìn nhận đánh giá tốt xấu, phải trái nhưng không giỏi giải quyết vấn đề. Họ không biết hành xử sao cho đúng mực cho phù hợp hoàn cảnh, nhân cảnh xung quanh mình. Lời nói không cẩn ngôn, thiếu khôn ngoan nên thường chủ về thị phi hay bị ganh ghét đố kị, dễ bị tách mình ra khỏi đám đông. Vì vậy Cự Môn rất cần bộ tuần triệt, bộ Song Hao, bộ Khoa Quyền Lộc để hãm sự thất thường, để hãm thị phi xung quanh.
Sao Cự Môn không thích gặp Hóa Kị. Bộ đôi Cự Kỵ lời nói sắc bén, khó nghe, lại thích nói chuyện, dễ khiến cho người nghe phản cảm, đắc tội với người mà không biết. Nếu sao Hóa Kị lại gặp phải Sát tinh, thì nên chú ý chuyện thị phi nơi quan trường.
Cự Môn mà hội nhiều sát tinh thì cuộc đời cũng thường có nhiều vất vả, sóng gió. Cự Môn kỵ nhất gặp sao Kình dương và sao Đà la, chủ về chuyện tình cảm gặp nhiều trắc trở. Cự môn gặp Hỏa tinh, Linh tinh thường tăng thêm phần khó khăn. Cự Môn đồng độ cùng Địa không, Địa kiếp tọa thủ cung mệnh, chủ về một đời vất vả, thậm chí thời thơ ấu còn bị bỏ rơi.
Các tổ hợp cách đặc biệt của Cự Môn– Ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thì Cự Môn trong tam hợp với Thái Dương– Ở hai cung Sửu hoặc Mùi, thì Cự Môn đồng cung với Thiên Đồng.– Ở hai cung Dần hoặc Thân, thì Cự Môn đồng cung với Thái Dương.– Ở hai cung Mão hoặc Dậu, thì Cự Môn đồng cung với Thiên Cơ.– Ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thì Cự Môn xung chiếu với Thiên Đồng.– Ở hai cung Tị hoặc Hợi, thì Cự Môn xung chiếu với Thái Dương.
Tý Ngọ: gọi là “Thạch trung ẩn ngọc cách”. Cổ thư viết “Cự Môn Tý Ngọ Lộc Khoa Quyền, Thạch trung ẩn ngọc phúc hưng long”. Mệnh cách này thường là những người kín đáo, tài năng không lộ. Mong gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, làm thượng cách. Gặp Lộc Tồn là thứ cách, đều chủ về người có địa vị cao trong xã hội, còn dễ trở nên giầu có.
Cách này là cách “nghi ẩn bất nghi hiển”, nên ẩn đi mà không nên hiện ra. Bởi vì tại Tý Ngọ, vốn là đất vượng của Cự. Nhưng bản chất của Cự là Hung tinh, ám muội thị phi. Cá tính này là gây nhiều bất lợi trong cuộc sống, đặc biệt là trong quan trường. Vậy khi Cự vào đất vượng thì tính thị phi khẩu thiệt kia sẽ phải ẩn đi, mất đi. Giống như viên ngọc nằm sâu trong đá vậy. Nghĩa là chẳng nên đi đến đỉnh cao thì một đời thì được chức cao lộc hậu. Nếu mà lên đến đỉnh cao ắt sẽ gặp rắc rối, dễ bị người ta chỉ trích. Thậm chí là thân bại danh liệt.
Cự Nhật Dần ThânDần Thân: Cổ nhân có viết “Cự Nhật đồng cung, phong quan ba đời” chủ phú quý. Tổ hợp Cự Môn Thái Dương đồng cung thì sự quang minh lỗi lạc của Thái Dương có thể giải khí ám trên mình Cự Môn. Tạo nên một sự cẩn trọng, khiêm nhường, chính trực cho nên dễ được lòng trong đám đông tập thể. Cự Nhật Dần Thân được xem là đắc cách phú quý với người mệnh Cự Môn. Tuy nhiên nếu hội nhiều sát tinh thì cuộc đời cũng có nhiều khó khăn trắc trở về tiền tài, tình cảm, công danh.
Thìn Tuất: Cự Môn đơn thủ ở tuất tốt hơn do có Nhật Nguyệt sáng sủa. Đặc biệt có Thái Dương từ Ngọ hội chiếu giải tính ám thị phi của Cự Môn thành cách phú quý. Cự Môn kị gặp sát tinh ở hai vị trí này.
Cự Cơ Mão Dậu cáchCự Cơ Mão Dậu đồng cung: Thiên Cơ cơ mưu khéo léo nên ít nhiều vẫn hạn chế đi tính thị phị của Cự Môn. Đây cũng cách cục tốt và rất cần nhiều cát tinh hoặc tổ hợp sao tốt để có thể hỗ trợ Cự Cơ phát triển tốt bản thân. Có thể dùng sự quyền biến đa mưu để chiếm lòng tin của người khác. Tối hỉ gặp Song Hao đồng cung thành cách chúng thủy triều đông, phát giã như lôi phát phú bất ngờ. Nếu hội nhiều sát tinh dễ thất bại, kị Kình Dương và Hỏa Linh.
Cự Cơ tại Mão có Quyền Lộc, hoặc Lộc Tồn hội hợp, lại thêm Tả Hữu Khôi Việt thì cực quý. Còn Cự Cơ tại Dậu tuy cũng có song Lộc, Quyền hội hợp, thì vẫn quý mà không hiển, phú mà không bền. Cách trên tam phương tứ chính đều phải tránh xa Kình Đà Hỏa Linh thì mới hợp cách.
Sửu Mùi: có Thiên đồng đồng cung, bản tính của Thiên Đồng cũng thất thường. Cho nên khi đứng cùng Cự Môn sẽ càng làm cho tính ám của Cự Môn tăng mạnh. Thiên Đồng có tính cách bảo thủ, chỉ lo lợi ích bảo toàn bản thân bất kể thế sự nên có thể áp chế phần nào làm giảm khuyết điểm thị phi của Cự Môn. Tuy nhiên Những người Đồng Cự thì tâm không bao giờ được an yên.
Xem thêm: Giaoducvietnam: Lại Nói Về “ Chuẩn Đầu Ra Tiếng Anh Là Gì
Sao Cự Môn khi ở 12 cung
Cự Môn ở cung MệnhNgười có sao Cự môn tọa thủ cung Mệnh, thường ánh mắt nhìn đoan chính, vẻ mặt nghiêm túc. Giọng nói cao mà thanh, hành động nhanh nhẹn. Những người này tính tình đa nghi, kết bạn với mọi người ban đầu thì tốt nhưng cuối cùng lại ác. Tư duy lãnh đạm, trong lòng nhỏ nhen hiếm khi rộng lượng. Tuy nhiên, là người có khả năng nghiên cứu, nên thường có tầm hiểu biết rộng, có sáng kiến. Dù không giao tiếp nhưng khả năng biểu đạt lại rất tốt, biện luận sắc sảo. Có xu hướng sống cuộc đời thanh bạch, ít thiên về thú vui của cuộc sống. Họ lấy công việc là mục đích hành đầu.
Phụ nữ cung mệnh có sao Cự môn thường có lòng tự tôn rất cao, bụng thẳng dạ ngay, sức sống mạnh mẽ, đa nghi. Thường hay tự so bì với người khác mà tự chuốc lấy phiền muộn trong lòng. Khi can thiệp vào chuyện gia đình hay công việc của chồng, thường thiếu thận trọng trong ngôn ngữ. Lời nói phản cảm thường gây tổn thương bầu không khí hạnh phúc, ấm cúng. Làm việc chăm chỉ cần mẫn, xử lý mọi việc trong gia đình chu đáo. Công việc và gia đình đều đảm nhiệm tốt.
Cự môn ở cung Huynh đệSao Cự môn đến cung Huynh đệ, chủ về anh em hình khắc bất hòa. Lời qua tiếng lại cãi vã, hoặc có anh em khác mẹ. Có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc, Ân quang, Thiên phúc hội chiếu, và có các sao Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn cùng đến, thì chủ về anh em sáng lập sự nghiệp thành tựu, ba người trở lên. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Âm sát, Cô thần, Quả tú hội chiếu thì hình khắc, tranh chấp thị phi. Sao Hóa Kị cũng chủ về lời qua tiếng lại thị phi, tai nạn bệnh tật, phá hao.
Cự môn ở cung phu thêSao Cự môn tọa cung Phu Thê, vợ chồng thường có tình trạng lời qua tiếng lại, cãi vã, gây sự. Nếu có Thái dương đồng độ, thì tính tình hào sảng, làm việc sáng suốt, dũng cảm gánh vác trách nhiệm. Có các cát diệu Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật hội chiếu thì giúp chồng dạy con, thông minh lanh lẹ. Đồng độ với Thiên cơ, gặp sao làm cho tốt lên, thì thông minh nhanh nhạy, xinh đẹp giỏi chăm lo gia đình. Đồng độ với sao Thiên đồng, tuy thông minh nhưng có hình khắc. Nếu có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình, Cô thần, Quả tú hội chiếu, thì chủ về khắc hại vợ, sinh ly, ở riêng, lời qua tiếng lại.
Nữ mệnh có sao Cự môn đến cung Phu, có các cát tinh Thái dương, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, thì chủ về lấy được người chồng đã phú mà còn quý. Đa tài đa năng, sự nghiệp lớn lao, còn được người kính mến. Nếu có sao Hóa Kị thì lời qua tiếng lại thị phi. Nếu hội chiếu Kình dương, Đà la, Không Kiếp, Hỏa Linh, Thiên hình, thì chủ về hình khắc phân ly. Nên làm kế thất, vợ lẽ, ở chung mà không cử hành nghi thức kết hôn. Đây là tinh diệu nóng nảy, nhiều tranh chấp.
Cự môn ở cung Tử tứcSao Cự môn đến cung Tử tức thì chậm có con. Nếu có Thái dương đồng độ, hội chiếu Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn dễ sinh con quý tử. Thông minh đa tài, sự nghiệp hơn cha ông. Có Thiên cơ đồng độ thì nên làm con thừa tự của người khác hoặc ở riêng. Nếu không sẽ hình khắc.
Có Thiên đồng đồng độ, gặp sát diệu, nuôi con thừa tự. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, thì chủ về cô độc. Có Hóa Kị, Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, thì chủ về con cái nhiều bệnh tật, phá hao tiền bạc về sau còn hình khắc. Đây là tinh diệu cô độc, cho nên cần phải có Thái dương đến chiếu sáng mới trừ khí u ám. Có Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, thì mới sinh được ánh sáng tốt lành.
Cự môn ở cung Tài bạchSao Cự môn đến cung Tài bạch, chủ về nhờ có hao tâm tổn trí thành tài mà được, có thể tay trắng lập nên sự nghiệp. Có Hóa Quyền, Hóa Lộc hoặc Lộc tồn đồng độ thì chủ về giầu có. Song tối kị chí khí cao ngạo, bị người chèn ép, gặp phải khó khăn cực lớn. Bị mọi người đánh đổ, hoặc bị con cái làm hao tổn, suy bại. Có Thái dương đồng độ, chủ về được người tin cậy, mở rộng cơ nghiệp đã thành, và có thể được người tôn sùng.
Có Thiên cơ đồng độ, vào nhiều ra nhiều, nhiều biến động. Có sao Thiên đồng đồng độ, có thể dựa vào kỹ thuật, nghệ thuật hoặc tay trắng mà sáng lập sự nghiệp; hoặc làm các nghề như luật sư, thẩm phán, bác sỹ, thầy thuốc mà làm nên. Có Kình dương Đà la cùng đến, chủ về nhiều rắc rối tranh chấp, kiện tụng. Có Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao đồng độ hoặc hội chiếu, sẽ có tổn hao vì họa cướp bóc
Cự môn ở cung Tật áchSao Cự môn đến cung Tật bệnh, chủ về các bệnh liên quan tới miệng, cổ họng. Có Thiên cơ đồng độ thì tâm phiền uất kết. Có Thái dương đồng độ thì huyết áp cao, đau mắt, đầu choáng, nhức đầu, hư hỏa bốc lên. Có Thiên đồng đồng độ thì đau thần kinh tọa, đau lưng eo, cơ nhục ngày càng teo tóp, hoặc mụn nhọt. Có Lộc tồn, Hóa Lộc thì bệnh bao tử. Có Hóa Kị thì thường lở miệng.
Cự môn ở cung Thiên diSao Cự môn có Hóa quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn đồng độ ở cung Thiên di, thì đương số có thể xuất ngoại đại phát, nhờ khẩu tài diễn thuyết hùng biện. Phù hợp làm về tư pháp, ngoại giao hoặc kinh doanh. Sao Cự môn Hóa Kị thì xuất ngoại nhiều tranh chấp cãi vã, tiến thoái không quyết đoán, đa nghi bất định, đông bôn tây tẩu, vất vả lạ thường. Có Thái dương đồng độ thì xuất ngoại vẻ vang, có thu hoạch bất ngờ.
Nhưng, Thái dương ở Tị Ngọ dễ bị tiểu nhân đố kị. Đồng độ với Thiên đồng, lại gặp Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, chủ về xuất ngoại tay trắng lập nghiệp. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu, thì xuất ngoại gặp tai nạn, thiếu duyên với người, nhiều thị phi. Lưu niên hóa sát thì có tai họa về lao tù, hình khắc tử thương.
Cự môn ở cung Nô bộcSao Cự môn Hóa Quyền đến cung nô bộc, gặp cát diệu nhập miếu Hóa Lộc hoặc Lộc tồn, chủ về bạn hữu tuy nhiều cãi vã tranh chấp. Song có nhiều bạn đa mưu, lập nên sự nghiệp. Hoặc có thuộc hạ tính tình thẳng thắn, siêng năng, giỏi làm, đa tài. Có Thái dương đồng độ chủ về “úy hữu“, hoặc được bạn tốt, trượng nghĩa, nói điều phải. Đồng độ với sao Thiên đồng thì nhiều bạn bè khẩu thị tâm phi, ngôn hành bất nhất.
Gặp sao Hóa Kị thì ít được bạn bè giúp đỡ, nhiều lời qua tiếng lại, nhiều tranh chấp. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ, thì chủ về bạn bè làm liên lụy, hoặc thủ hạ là người bất nghĩa. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao đồng độ hoặc hội chiếu thì chủ về vì bạn bè mà phá hao, hoặc bị thủ hạ trộm cắp.
Cự môn ở cung Quan LộcSao Cự môn nhập miếu đến cung Sự nghiệp, chủ về sáng lập sự nghiệp, hoặc phát triển từ nghề nghiệp chuyên môn. Như làm thầy thuốc, luật gia, nhà quân sự, cho đến phát triển sự nghiệp trong lĩnh vực tướng học, hoặc lãnh đạo bang hội, lãnh đạo tôn giáo, dùng đầu óc hơn người và khẩu tài hùng biện mà thành công. Có các cát tinh, lại gặp Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn đồng độ, chủ về làm trong giới quân sự, người nổi tiếng trong xã hội, nhân vật lớn trong giới thương nghiệp.
Có Thái dương đồng độ, thì danh tiếng lớn hơn tiền tài. Có Thiên cơ đồng độ thì biến động đa đoan không thể làm một việc một nghề suốt đời được. Khi văn khi võ, khi đông khi tây, ảo tưởng nhiều, dục vọng nặng. Đồng độ với sao Thiên đồng, thì có đầu mà không có đuôi, việc nhiều mà không thể kết thúc. Có sao Hóa Kị thì sự việc không yên định, nhiều tranh chấp, cãi vã thị phi, trong sự thành công có nhiều thất bại.
Gặp các sát tinh Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Thiên hình, thì trong công việc bị nhiều kiện tụng. Dính dáng đến pháp luật, đấu đá tranh chấp, nghề nghiệp không ổn định. Có khi được tiền tài bất ngờ, song bạo phát bạo tàn, được đó mất đó. Hoặc bôn ba giang hồ, bị thất bại bất ngờ, hay bị đả kích một cách đặc biệt.
Cự môn ở cung Điền trạchCự môn ở cung Điền trạch, có cát diệu, lại Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc gặp Lộc tồn đồng cung, chủ về tự tạo sản nghiệp. Có Thái dương đồng độ, tuy có điền sản, song hay phải tranh chấp, có nhiều điều tiếng. Có sao Thiên cơ đồng độ, lúc lên lúc xuống, dễ thành dễ bại. Đồng độ cùng sao Thiên đồng, phần nhiều vì ruộng đất thấp và sông lạch mà gây ra tranh chấp, rắc rối. Cự môn Hóa Kị thì gia trạch không yên, vì lời qua tiếng lại thị phi mà rời xa nhau, hoặc trong gia trạch lắm chuyện thị phi.
Có Kình dương, Đà la, Thiên hình hội chiếu, thì chủ về vì nhà cửa đất đai mà sinh ra tranh chấp rắc rối hay liên quan đến pháp luật. Hoặc người trong nhà thường hay bị hình khắc tổn thương, tai họa. Có Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, hội chiếu, thì chủ về gia trạch gặp họa hỏa tai, cướp trộm, hoặc chủ về bản thân phải phiêu bạt tứ hải.
Cự môn ở cung Phúc đứcSao Cự môn đến cung Phúc đức cho thấy người này thường lao tâm lao lực, hao tổn tinh thần, sức khỏe yếu kém. Hóa Kị thì tâm thần bất định, mất ngủ, làm việc không có định hướng, không thể làm suốt một mạch. Nửa chừng thường muốn thay đổi, hoặc nửa chừng mất đi nhiệt tình.
Chỉ khi nào đồng độ với phúc tinh Thiên đồng mà không có sát diệu, thì mới được vui vẻ, yên ổn. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ hoặc hội chiếu, thì chủ về tự tìm phiền não. Nhiều lo nghĩ ưu phiền, nói nhiều hay gây rắc rối, không được hưởng phúc.
Cự môn ở cung Phụ mẫuSao Cự môn đến cung Phụ mẫu, nên làm con nuôi của người khác. Nếu không dễ khắc hại cha mẹ. Có Thiên cơ đồng độ cũng vậy. Có Thái dương đồng độ thì giữa cha con có sự tranh chấp, nhiều cãi vã. Đồng độ cùng Thiên đồng, không lợi cho cha mẹ. Gia sản của tổ tiên dần dần lụi bại, hoặc bị kẻ khác chiếm đoạt.
Có Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn đồng cung, thì không hình khắc. Hoặc chủ về cha mẹ giầu có, được thừa hưởng di sản. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Thiên hình hội chiếu, chủ về hình thương khắc hại. Cha mẹ không thể đầy đủ.
Kết luậnĐại hạn, hoặc Tiểu hạn gặp Cự Môn, thì không chủ về có đặc tính của Cự Môn, mà lại chủ về cảnh ngộ bị Cự Môn che phủ. Nếu không có Thái dương sáng sủa chiếu về, hoặc Quyền Lộc, trái lại còn gặp các sao Sát Kị, thì chủ về Đại vận hoặc Lưu niên không cát tường. Đương số dễ gặp điều tiếng thị phi, phạm pháp, kiện tụng. Cần gặp lục cát hoặc sao hóa giải, sau mới hưng thịnh. Cự Môn là sự phiến nhiễu của thị phi, không thể không thận trọng.
Bản chất của Cự Môn là Ám tinh thuộc Hung tinh. Trong đời không tránh khỏi sự thăng trầm, lên voi xuống chó nhiều lần, trải quan nhiều gian khổ. Phú thì cũng có mà chẳng bền, tiền tài đến rồi lại đi, từ trong gian khó vươn lên. Nhưng rồi cũng khó lòng bảo toàn. Mà quý thì cũng không ngẩng mặt được với đời. Có chăng chỉ là nhất thời đắc vận được một chút. Về sau thì im hơi lặng tiếng. Hơn nữa, trong câu chuyện phú quý này, nếu Cự Môn biết dừng đúng lúc thì bảo toàn được thân danh. Còn cố công leo lên đỉnh cao thì thân bại danh liệt. Đó cũng là một đặc điểm quan trọng của Cự Môn.
Cự Môn nếu được mài dũa bằng thời gian bằng gian khó thì sẽ giống như “Ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.