Mỗi sự vật xuất hiện đều có một mục đích nhất định và đều hướng đến phục vụ cuộc sống của con người. Văn học cũng thế. Các chức năng của văn học đã cho thấy vai trò đặc biệt của món ăn tinh thần này. Tuy thuộc về phạm trù giá trị tinh thần nhưng văn học cũng có những vai trò nhất định. Những chức năng của văn học phải kể đến là chức năng giáo dục, chức năng thẩm mỹ và chức năng giao tiếp. Nội dung bài viết dưới đây của DINHNGHIA.COM.VN sẽ cùng bạn tìm hiểu đối tượng của văn học, đặc trưng cũng như chức năng của văn học.
Nội dung chính bài viết
Khái niệm văn học là gì?
Văn học theo khái niệm chính là một loại hình của sáng tác giúp tái hiện những đề tài của đời sống xã hội cũng như con người. Có nhiều quan điểm về khái niệm văn học, tựu chung lại sự xuất hiện của văn học chính là dựa vào sự sáng tạo của việc hư cấu, và nội dung được thể hiện qua từng đề tài sáng tác.
Khái niệm văn học thường bị nhầm lẫn với văn chương. Tuy nhiên, về bản chất thì văn học mang ý nghĩa rộng hơn và bao gồm văn chương. Sự khác nhau rõ nhất giữa hai khái niệm này chính là bởi văn chương thường nhấn mạnh nhiều đến tính thẩm mỹ, sự sáng tạo hay phương diện ngôn ngữ cùng nghệ thuật của ngôn từ.
Các thể loại chính của văn học:
Một số khái niệm trong văn học
- Đề tài: Thường được sử dụng nhằm chỉ sự vật, hiện tượng đời sống được phản ánh trực tiếp trong sáng tác văn học. Như vậy thì đề tài chính là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm.
- Chủ đề: Trong văn học thì chủ đề chính là vấn đề trung tâm, là những cơ bản được tác giả đặt ra trong nội dung cụ thể của tác phẩm văn học.
- Tư tưởng tác phẩm văn học: Thể hiện sự nhận thức, là những lí giải hay thái độ của chính tác giả trong nội dung tác phẩm.
- Nhân vật văn học: Ở đây chính là con người cụ thể được thể hiện trong tác phẩm văn học. Thông thường nhân vật văn học có thể có hoặc không tên riêng.
- Kết cấu: Theo định nghĩa, kết cấu trong văn học chính là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm. Bố cục trong văn học nhằm chỉ sự phân bố hay sắp xếp các bộ phận, chương đoạn của tác phẩm theo trình tự nhất định. Như vậy, bố cục chính là phương diện của kết cấu và khái niệm kết cấu cho thấy nội dung phức tạp hơn, rộng rãi hơn.
Chức năng nhận thức của văn học
Văn học giúp người đọc nhận thức rõ về bản thân mình. Văn học giúp phản ánh hiện thực để đem lại những kiến thức mênh mông về đời sống vật chất lẫn tinh thần của con người. Bởi thế mà có người cho rằng văn học chẳng khác gì bách khoa toàn thư của cuộc sống. Ta từng thấy Ăng-ghen nhận xét khi đọc về tiểu thuyết của Ban-zắc – đó là giúp người đọc hiểu hơn về xã hội của nước Pháp.
Bên cạnh đó, chức năng nhận thức của văn học còn thể hiện ở việc giúp người đọc tự nhận thức về bản thân mình. Những câu hỏi về sự tự nhận thức bản thân cũng được văn học giải đáp một cách chi tiết nhất.
Chức năng thẩm mĩ của văn học
Chức năng thẩm mỹ của văn học là một chức năng đặc trưng. Thẩm mỹ chính là cái đẹp. Cái đẹp ở đây đến từ nhiều phương diện, nhưng tựu trung lại con người luôn thích chiêm ngưỡng cái đẹp. Đó chính là bản chất của con người, là nhu cầu mà con người luôn hướng đến.
Mỗi người sẽ có định nghĩa khác nhau về cái đẹp, nên không có một thước đo chuẩn xác cho cái đẹp, bởi lẽ nó khởi phát trong lòng người. Nhưng chức năng của cái đẹp, sự tác động của cái đẹp thì ta có thể thấy rõ và cảm nhận được. Cái đẹp xoa dịu tâm hồn con người, gạt bỏ mọi điều xấu xa khỏi tâm hồn con người chỉ để lại những gì thanh khiết trong tâm hồn con người.
Cái đẹp có chức năng cứu rỗi là vì thế. Chính nhờ có cái đẹp mà con người sẽ cảm thấy thêm yêu cuộc đời này, thấy cuộc sống có thêm ý nghĩa. Đó chính là giá trị chức năng đặc trưng của các loại hình nghệ thuật nói chung, của văn học nói riêng.
Cái đẹp của văn học đến từ cả hai phương diện hình thức và nội dung. Hình thức của văn học chính là thể loại chính là ngôn ngữ, hình ảnh được tác giả sử dụng. Nếu họa sĩ dùng màu sắc để vẽ tranh, nhà điêu khắc dùng đường nét để khắc họa, nhạc sĩ dùng âm nhạc để nói nên nỗi lòng mình thì nhà văn lại dùng ngòi bút để tạo nên đứa con tinh thần của mình. Ngôn ngữ chính là chìa khóa vạn năng để thi nhân mở ra cánh cửa của muôn vàn cảm xúc. Nhà văn nhà thơ là người chắt lọc và sử dụng ngôn ngữ để diễn tả nỗi lòng của mình. Cái đẹp ấy chính là ngôn ngữ.
Như câu thơ của Quang Dũng trong bài Tây Tiến dù cách đây đã lâu nhưng vẫn đủ sức làm lay động trái tim người đọc mọi thời đại
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Câu thơ với cách ngắt nhịp 4/3 cùng với sự lặp lại từ “dốc” ở đầu mỗi phần ngắt nhịp đã tạo nên một hình ảnh độc đáo. Sự bẻ đôi của câu thơ cũng đã phần nào diễn tả được độ dốc của địa hình. Và câu thơ có nhiều thanh trắc càng gợi được sự khó khăn trúc trắc trên bước đường hành quân của người lính.
Nhịp thơ như chính hơi thở của người lính trên hành trình leo dốc đầy gian nan này. Trên bước đường hành quân, khó khăn gian khổ là điều không thể tránh khỏi nhưng quan trọng là cách ta đối diện với khó khăn. Những người lính Tây Tiến cũng thế. Họ chấp nhận khó khăn và đối diện nó một cách đầy hiên ngang nhưng không kém phần tinh nghịch.
Biện pháp đảo ngữ đưa từ láy “heo hút” lên đầu đã nhấn mạnh sự vắng vẻ của khung cảnh nơi đây đồng thời còn nhấn mạnh sự hoang sơ của khung cảnh nơi đây không một bóng người. Thường với không gian hoang vắng như thế, con người sẽ oán than cuộc đời hoặc cảm thấy mình bé nhỏ cô độc nhưng những người lính không thế. Họ nhìn xa hơn vào cái hoang vắng ấy để thấy “súng ngửi trời”.
“Súng ngửi trời” là một hình ảnh nhân hóa đầy thú vị. Súng đeo trên vai luôn theo sát người lính ở mọi bước đường hành trình. Đi trên con dốc khiến người lính có cảm tưởng như chạm đến mây. HÌnh ảnh ấy gợi được độ cao của con dốc. Nhưng qua cái nhìn của người lính Tây Tiến khung cảnh hiện lên có cảm giác thật nhẹ nhàng, tinh nghịch như một bộ phim hoạt hình. Thế nhưng chính sự lạc quan tươi vui ấy lại là một phẩm chất cần có ở người lính. Bởi lẽ nó là chất xúc tác giúp người lính có thể vượt qua mọi khó khăn.
Câu thơ “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” là một nét phác họa gợi cho ta liên tưởng đến một bức tranh thủy mặc thời cổ của một thi sĩ nào đó. Chính nét phác họa ấy đã tạo nên một bức tranh nhiều chiều, dường như không chỉ là độ cao mà nó còn là độ sâu nữa. Dù hình ảnh người lính không xuất hiện trực tiếp nhưng trên phông nền hùng vĩ của thiên nhiên ấy, ta có thể tưởng tượng hình ảnh người lính xuất hiện hùng tráng biết bao như các chiến sĩ thời trung đại.
Có lẽ chính vì có lí tưởng, có mục đích chiến đấu cao cả nên người lính Tây Tiến không hề bé nhỏ cô đơn mà ngược lại. Kết thúc bức tranh núi rừng tây tiến hoang sơ nhưng hùng vĩ ấy là một hình ảnh thật nên thơ thơ mộng với “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ chỉ toàn thanh bằng khiến người đọc có một cảm giác thật nhẹ nhàng lãng mạn….
Trong những giây phút dừng chân hiếm hoi, người lính Tây Tiến phóng tầm mắt ra xa tìm kiếm một nơi ấm, một mái nhà ấm áp. Chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đủ làm dấy lên trong lòng họ ngọn lửa ấm áp. Đó chính là cái đẹp mà văn học mang lại nhưng cái đẹp đó không đơn thuần là ở bên ngoài mà còn tác động đến tầng sâu cảm xúc làm lắng đọng những suy tư. Chính vì vậy, cái đẹp của văn học mới có thể tồn tại.
Chức năng giáo dục của văn học
Lý giải văn học với chức năng giáo dục
Giáo dục chính là một mục đích tuyệt vời của văn học. Chức năng giáo dục của văn học cũng là một trong những điều đặc biệt mà văn học mang lại. Sự giáo dục mà văn học mang lại không đơn thuần là những kiến thức sách vở mà đó là những bài học tác động đến tình cảm, cách ta nhìn nhận thế giới. Vì vậy, bên cạnh nhiều yếu tố khác, văn học chính là một trong những nhân tố giúp con người hình thành tam quan – thế giới quan, nhân sinh quan, giá trị quan.
Văn học mang đến bài học giáo dục con người theo mỗi cách khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào người đọc giải mã tác phẩm thế nào. Mỗi người có một cách đọc, một cách nhìn nhận và lí giải tác phẩm khác nhau. Nhà văn sẽ mã hóa thông điệp của mình vào một hình ảnh, một chi tiết hay một nhân vật nào đó trong tác phẩm của mình.
Như khi đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, ta nhận thấy Nguyễn Du gửi gắm sự đồng cảm đối với những bất công ngang trái mà những người tài hoa bạc mệnh phải gánh chịu. Thúy Kiều là một cô gái tài sắc nhưng phải chịu số phận hẩm hiu không chỉ rời xa gia đình êm ấm, mối tình đầu dang dở nhưng nàng lại phải chịu đựng kiếp làm lẽ, bị người đời chà đạp.
Đời một người con gái tài hoa cuối cùng lại chỉ đành “khép cửa phòng tu” mà thôi. Bởi lẽ trong một xã hội đầy bất công, thế lực đồng tiền lên ngôi thì con người có tài hoa mấy rồi cuối cùng chỉ dang dở mà thôi. Chính vì vậy đọc truyện Kiều, ta không chỉ xót xa đồng cảm cho số phận của Kiều mà còn cảm thấy chán ghét bức bối trước xã hội thối nát.
Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, đọc những vần thơ về Kiều ta càng thêm khâm phục tài sắc và cả nhân cách của Kiều. Trân trọng ngợi ca cái đẹp cái tài cũng chính là một cách để thể hiện tấm lòng của tác giả đối với Nhưng bên cạnh đó còn là ước mơ về người anh hùng được gửi gắm qua nhân vật Từ Hải.
Chức năng giáo dục của văn học thiếu nhi
Nhưng không chỉ có những tác phẩm lớn mà ngay những tác phẩm văn học thiếu nhi cũng đã hàm chứa chức năng giáo dục. Đó là giáo dục tình yêu thiên nhiên yêu quê hương đất nước. Chỉ một bài thơ Hạt gạo làng ta của Trần Đăng Khoa cũng đã đủ để khơi dậy trong lòng người đọc nhiều ý nghĩ
“Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy”.
Chỉ những hình ảnh đó thôi cũng đã khiến mọi người nhớ đến hình ảnh làng quê êm đềm với những hạt gạo mà bác nông dân phải một nắng hai sương xay giã giần sàng.
Văn học thiếu nhi tuy hướng đến đối tượng chính là thiếu nhi nhưng những bài học tác giả gửi gắm vào đó không hề giản đơn tùy tiện mà luôn chứa một chiều sâu vừa đủ để chạm đến tâm hồn của các độc giả trẻ tuổi cũng như vừa đủ để người lớn khi đọc lại vẫn cảm thấy vỡ lẽ ra nhiều điều thú vị.
“Cháu chiến đấu hôm nay
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ”
Chỉ vài dòng thơ trong bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân QUỳnh mà ta như sống lại với bao kỷ niệm ấu thơ về người bà hiền hậu tảo tần sớm hôm để lo cho đàn cháu nhỏ dại. Bà thắp lên những ngọn lửa không chỉ soi sáng không gian tăm tối mà còn soi sáng cả cuộc đời cháu…
Chức năng giao tiếp của văn học
Văn học bên cạnh chức năng giáo dục, thẩm mỹ còn có chức năng giao tiếp. Chức năng giao tiếp của văn học không trực tiếp cụ thể mặt đối mặt như các kiểu giao tiếp thông thường trong cuộc sống mà nó là sự đối thoại đặc biệt giữa tác giả và người đọc. Tác giả sẽ truyền tải câu chuyện thông điệp vào trong từng trang viết.
Cuộc đời thi nhân dường như trải ra tâm trạng của người viết cũng được phơi bày một cách trung thực nhất không giấu giếm không lừa dối. Bởi lẽ thơ ca chỉ có thể tác động đến trái tim người đọc khi nó đi ra từ chính trái tim của người viết. Trái tim mới có thể đi đến trái tim. Nếu như những gì anh viết không phải là tình cảm nồng hậu chân thành thì làm sao có thể rung lên ở người đọc vô vàn xúc cảm. Như đọc những vần thơ của Xuân Diệu:
“Tôi khờ khạo lắm ngu ngơ quá
Chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì”
Hay những vần thơ của Hàn Mặc Tử:
“Làm sao giết được người trong mộng
Để trả nợ duyên kiếp phũ phàng”
Nếu đó không phải là những vần thơ xuất phát từ trái tim của thi nhân – một trái tim cô đơn khát khao tìm kiếm tình yêu thì làm sao những vần thơ ấy còn được lưu truyền đến ngày nay. Thời gian là dòng chảy khắc nghiệt nhất phũ phàng nhất có thể hủy hoại hết mọi thứ. Nhưng với tác phẩm văn học, thời gian lại chính là thước đo giá trị chính xác nhất.
Bởi tác phẩm sẽ còn tồn tại, nhà văn nhà thơ sẽ còn tồn tại đến khi nào người đọc thôi nhớ, thôi xúc động khi đọc tác phẩm. Muốn như thế thì trước hết tác phẩm phải là cái tình của nhà thơ. Đó là lí do vì sau đã hơn nghìn năm nhưng mỗi lần đọc lại những câu ca dao xưa ông bà để lại ta không khỏi xúc động trước một nỗi niềm
“Em tưởng giếng nước sâu
Em nối sợi gàu dài
Ai ngờ giếng nước cạn
Em tiếc hoài sợi dây”
Nhưng sự đối thoại giữa người đọc và tác giả lại được diễn ra gián tiếp thông qua tác phẩm. Nếu như nhà văn là người mang đứa con tinh thần của mình đến với người đọc thì người đọc lại chính là người mang lại hơi thở, sự sống cho tác phẩm. Và lời hồi đáp của người đọc dành cho tác giả chính là những nỗi niềm trân quý, sự rung lên trong tâm hồn và sự thay đổi của người đọc. Tất cả đều góp phần kiến tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn.
Văn học là thế, không cần những mĩ từ ngợi ca mà nó được người đời tung hô bởi những giá trị tự thân, mà giá trị ấy do nhiều yếu tố hợp thành như nhà văn, tư tưởng của tác phẩm, người đọc,… Một tác phẩm hội tụ đầy đủ những giá trị chwusc năng này ắt hẳn sẽ không phải là một tác phẩm nông cạn, trôi tuột trong kí ức người đọc mà ngược lại sẽ neo đậu trong lòng người đọc bao thế hệ.
Bản chất và đặc trưng của văn học
- Đặc trưng về đối tượng phản ánh.
- Đặc trưng về nội dung phản ánh của văn học.
- Đặc trưng về phương tiện phản ánh của văn học.
- Tính phi vật thể của ngôn từ nghệ thuật.
Bài viết trên đây của DINHNGHIA.COM.VN đã cung cấp cho bạn cái nhìn đầy đủ về các chức năng của văn học cũng như bản chất và đặc trưng của văn học. Mong rằng nội dung trong bài viết sẽ cho bạn những thông tin hữu ích phục vụ quá trình nghiên cứu về chủ đề Chức năng của văn học. Chúc bạn luôn học tốt!.
Xem thêm: