Or you want a quick look: Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới – Mẫu 1
Sau khi tham gia lớp bồi dưỡng Đảng viên mới, sẽ phải làm bài thu hoạch lớp Đảng viên mới để làm căn cứ cấp giấy chứng nhận học lớp Đảng viên mới. Đây là giấy tờ bắt buộc để xét duyệt Đảng viên chính thức.
Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới viết về quá trình học tập của mình, xem bản thân đã rút ra được gì trong quá trình học tập. Vậy mời các bạn cùng tham khảo 5 mẫu bài thu hoạch này để nhanh chóng hoàn thành bài của mình.
Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới – Mẫu 1
Qua lớp Bồi dưỡng LLCT lớp Đảng viên mới, đồng chí liên hệ tình hình thực tế tại chi bộ trong sinh hoạt và bản thân đối với thực hiện các nội dung chủ yếu xây dựng Đảng về đạo đức trong giai đoạn hiện nay.
Trả lời
Hiện nay, sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang gây nên bức xúc của toàn xã hội, đã làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và đang trở thành nguy cơ hiện hữu uy hiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Ngay từ Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) Đảng ta đã tiến hành chỉnh đốn Đảng, đấu tranh không khoan nhượng với những biểu hiện suy thoái, biến chất nêu trên. Và nhận thức tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng về đạo đức trong tình hình mới nên đến Đại hội XII của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề cập một cách chính thức xây dựng Đảng về đạo đức vào trong Văn kiện của Đảng; trong đó đề cập cụ thể đến các nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức.
Trước khi liên hệ với việc thực hiện các nhiệm vụ này đối với bản thân và tại Chi bộ đang công tác thì cần làm rõ về các nhiệm vụ chủ yếu trong xây dựng Đảng về đạo đức trong giai đoạn hiện nay. Các nhiệm vụ này bao gồm:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị – xã hội, địa phương, đơn vị gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
– Vấn đề học tập và làm theo Bác đã được tiến hành lâu dài trong lịch sử Đảng ta. Trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
– Ngày 15-5-2016, thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Bộ Chính trị khóa. XII đã ban hành Chỉ thị số 05 -CT/TW “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Chỉ thị xác định đây là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Như vậy, việc thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ đề ra trong Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị là biện pháp quan trọng hàng đầu để xây dựng Đảng về đạo đức hiện nay.
Hai là, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, “nói không đi đôi với làm”
– Để thực hiện nhiệm vụ nêu trên, Đại hội XII yêu cầu trước hết là phải “Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động, ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”.
– Trong nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí, cần “Kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí với yêu cầu chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí; lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí”.
Ba là, xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị
– Nêu gương là một phương pháp cơ bản trong giáo dục đạo đức, lối sống. Thực hiện Quy định số 101-QD/TW về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp quán triệt các nội dung nêu gương gồm 7 lĩnh vực: về tư tưởng chính trị; về đạo đức, lối sống, tác phong; về tự phê bình và phê bình; về quan hệ với nhân dân; về trách nhiệm trong công tác; về ý thức tổ chức kỷ luật và về đoàn kết nội bộ
Bốn là, thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của tổ chức đảng, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và của nhân dân về phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên
Việc thực hiện quy định chung về kiểm tra, giám sát của Đảng và thực hiện vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và của nhân dân về phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên nhằm: Phát huy ưu điểm, phát hiện gương cán bộ, đảng viên tiêu biểu, điển hình tiên tiến trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức để nhân rộng, biểu dương, khen thưởng kịp thời. Kịp thời nắm bắt và giúp cán bộ, đảng viên nâng cao ý thức, trách nhiệm trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Giáo dục và ngăn ngừa vi phạm đạo đức của cán bộ, đảng viên; xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm đạo đức theo quy định.
* Liên hệ thực tế với bản thân và Chi bộ đang công tác về các nhiệm vụ chủ yếu của xây dựng Đảng về đạo đức trong giai đoạn hiện nay
– Đối với Chi bộ bản thân đang sinh hoạt:
Thứ nhất, tôi nhận thấy Chi bộ…nơi tôi đang sinh hoạt rất chú trọng đối với việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên thuộc Chi bộ mình.
Cụ thể, Chi bộ đã quán triệt 100% cán bộ, đảng viên tham gia học tập các nghị quyết của Đảng về giáo dục đạo đức, chính trị, tư tưởng, như Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về văn hóa; Nghị quyết Trung ương 6, lần 2 (khóa VIII); Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX); Nghị quyết Trung ương 5, 6 (khóa X); đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng Đảng, trong đó nhấn mạnh vấn đề trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất là: Kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên để củng cố niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng.
Thứ hai, Chi bộ luôn luôn đổi mới đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong Chi bộ.
Và bản thân tôi sinh hoạt trong chi bộ cũng nhận thấy rằng việc đổi mới này đã mang lại hiệu quả tích cực hơn trước nhiều lần.
Chi bộ rất chú trọng việc đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ chí Minh. Các buổi sinh hoạt chuyên đề về nội dung này thực sự đã làm cho cán bộ, đảng viên thật sự thấm nhuần tấm gương của Người về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, từ đó, triệt để thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí… bằng các tiêu chí, chuẩn mực đạo đức cụ thể. Đảng bộ phường cũng đã tổ chức rất thành công Hội thi Tuyên truyền về thực Chỉ thị 05-CT/TW gắn với Nghị quyết Trung ương 4, Khoá XII.
Đảng bộ phường Thanh Bình nói chung và Chi bộ… nói riêng đã phát động các phong trào thi đua, xây dựng các mô hình, tấm gương của tập thể, cá nhân tiêu biểu trong rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Tạo sự chuyển biến thực sự về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trong Chi bộ cũng như trong toàn Đảng bộ.
Thứ ba, Chi bộ luôn phát huy tinh thần tự học, tự rèn đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên và tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, đảng viên tự học, tự rèn.
Cụ thể, Chi uỷ nơi tôi đang sinh hoạt đã tạo môi trường thuận lợi, chú trọng phân công, giao nhiệm vụ cho cán bộ, đảng viên để có điều kiện cọ sát, rèn luyện, thử thách. Và Chi uỷ đã quán triệt quan điểm: Nếu lười học nhất là lười học lý luận, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận, cập nhật những thông tin mới, những tri thức mới cũng là một biểu hiện suy thoái về đạo đức.
Thứ tư, Chi bộ mà tôi sinh hoạt đã rất nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình.
Thứ năm, Chi bộ luôn chú trọng tăng cường kiểm tra, giám sát đối với việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, về tự học, tự rèn nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong Chi bộ. Và thực tế, tôi nhận thấy rằng việc kiểm tra, giám sát quá trình rèn luyện, tu dưỡng phấn đấu, về tự học, tự rèn của cán bộ, đảng viên đã tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên trong Chi bộ thường xuyên làm tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, chấp hành nghiêm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thêm vào đó, Đảng bộ phường Thanh Bình nói chung và Chi bộ… nói riêng đã tích xây dựng môi trường công tác của cơ quan, đơn vị, trong sạch, tích cực làm cho cán bộ, đảng viên có nếp sống lành mạnh, có đạo đức trong sáng; cấp trên làm gương cho cấp dưới, cán bộ, đảng viên nêu gương cho quần chúng, nói và làm đi đôi với nhau.
Thứ sáu là, Chi bộ …đã làm rất tốt công tác thi đua khen thưởng, kịp thời nêu gương người tốt, việc tốt. Có chế độ, chính sách thoả đáng với những người có thành tích tốt; kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, hoặc có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống.
– Đối với bản thân:
Tôi nhận thức rất rõ rằng, để thực hiện các nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức thì trước hết người cán bộ, đảng viên phải có đạo đức cách mạng, phải trong sáng, trung thực, trách nhiệm. Và làm được điều này sẽ góp phần xây dựng Đảng ta trong sạch, đạo đức và văn minh.
Chính vì vậy, bản thân tôi luôn ý thức tự giác rèn luyện, học tập, tu dưỡng để nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống với phương châm suốt đời phụng sự Tổ quốc và nhân dân, lấy ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân làm lý tưởng hành động.
Bên cạnh đó, bản thân tôi luôn chú trọng đến công tác tự phê bình và phê bình. Tôi luôn thể hiện trách nhiệm của bản thân trong công tác này, không làm qua loa, lấy lệ.
Trong sinh hoạt đảng cũng như trong mọi hoạt động ở cơ quan tôi luôn thể hiện thái thực sự cầu thị, biết lắng nghe ý kiến phê bình của người khác để sau mỗi lần phê bình và tự phê bình trưởng thành hơn về nhận thức, tư tưởng, có tinh thần đoàn kết, ý thức tích cực trong đấu tranh chống những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.
Bản thân tôi luôn nghiêm túc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Và tôi quan niệm rằng không học và làm theo Bác từ những điều bình dị nhất để hoàn thiện bản thân trong cuộc sống hằng ngày, trong mối quan hệ với đồng nghiệp, trong giao tiếp với nhân dân và trong thực hiện nhiệm vụ mà cơ quan giao phó.
Ngoài ra, thực hiện tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, khoá XII, bản thân tôi tự soi mình vào 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hoá trong nội bộ mà Nghị quyết đã chỉ ra để tự răn mình, tự sửa mình.
Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới – Mẫu 2
Họ và tên:……………………………………………………
Năm tháng năm sinh:………………………………….
Quê quán:……………………………………………………
Hộ khẩu thường trú:………………………………………
Ngày vào Đảng:……………………………………….
Nơi vào Đảng:…………………………………………….
Trả lời
Sau quá trình tham gia lớp bồi dưỡng Đảng viên mới, bản thân tôi rút ra những thu hoạch như sau:
I. Về chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã chỉ rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.
Đại hội IX khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắcvề những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Trong thời đại ngày nay có lắm chủ nghĩa nhưng chủ nghĩa Mác – Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận thực sự cách mạng và khoa học.
Dưới ánh sángcủa chủ nghĩa Mác – Lênin, tổng kết kinh nghiệm cách mạng thế giới và thực tiễn tình hình đất nước, Người đã chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, soạn thảo Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, xác định đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác – Lênin, giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách mạngViệt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, qua đó phát triển sáng tạo, làm phong phú thêm kho tàng lý luận Mác – Lênin. Thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc và đưa đất nước phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng là một minh chứng sống động về sự vận dụng thành công chủ nghĩa Mác – Lênin ở nước ta.
Việc vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện thực tiễn nước ta hiện nay đang là vấn đề được Đảng ta hết sức quan tâm,coi đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải đi liền với bổ sung và phát triển dựa trênnhững vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Phải chăm chú phát hiện, tổng kết thực tiễn để tìm ra cái mới của lý luận, bổ sung cho kho tàng lý luận mác xít, dùng nó như một kim chỉ nam dẫn đường chứ không phải kinh thánh để rơi vào giáo điều. Kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu và thủ đoạn đả kích, phủnhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để đấu tranh có hiệu quả, cần nắm có hệ thống từng luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn với hoàn cảnh lịch sử và yêu cầu cụ thể cần giải quyết. Đồng thời, phải tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới; đưa những tư tưởng, quan điểm đóvào thực tế cuộc sống, đem lại hiệu quả thiết thực nhằm hiện thực hoá thắng lợi những đặc trưng cơ bản của cách mạng xã hội, hiện thực hoá thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đó là cách tốt nhất để bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phải kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng cơ hội, xét lại và bảo thủ, giáo điều. Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có tính nguyên tắc số một đối với Đảng ta. Trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có nghĩa là nắm vững bản chất cách mạng, khoa học và nhân đạo, vận dụng một cách đúng đắn, thích hợp vào điều kiện nước ta, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu và thủ đoạn đả kích, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ phía những thế lực thù địch và những kẻ cơ hội.Trong tình hình hiện nay, việc nghiên cứu, học tập để nắm vững, vận dụng sáng tạo, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo đã khẳng định: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn. Hơn bảy mươi năm qua, Đảng ta luôn luôn kiên định, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhờ vậy, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi vĩ đại.
Bài học chủ yếu, quan trọng hàng đầu của 15 năm tiến hành công cuộc đổimới và Đại hội IX xác định cũng chính là phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc vàchủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm trước đó, Đại hội VI rút ra những bài học quý giá có tầm chỉ đạo trong việc xác định hướng đi lên chủnghĩa xã hội ở nước ta:Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng“lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dânlao động.Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành độngtheo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật kháchquan là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đạitrong điều kiện mới.Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của mộtĐảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.Từ đó, Đảng ta nhấn mạnh rằng, để xác định đúng đắn phương hướng đilên chủ nghĩa xã hội, phải vận dụng đúng quy luật khách quan. Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật là đời sống vật chất và văn hoá của nhândân từng bước ổn định và nâng cao, con người mới xã hội chủ nghĩa ngày cànghình thành rõ rệt, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ xã hội chủ nghĩa đượccủng cố.Đại hội VI đã đặt vấn đề chính sách xã hội một cách cơ bản. Lần đầu tiênchính sách xã hội được xem xét một cách tổng thế và toàn diện gắn liền vớichính sách kinh tế, giải quyết phù hợp với từng chặng đường đi lên chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở những quan điểm cơ bản và lâu dài về chính sách xã hội. Điềunày thể hiện được bản chất của chủ nghĩa xã hội, là cơ sở để đi đến mô hình chủnghĩa xã hội của nước ta ngày càng toàn diện hơn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) với chủtrương: tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lênchủ nghĩa xã hội, đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời thông qua Chiến lược ổn định và phát triểnkinh tế – xã hội đến năm 2000 (1991-2000). Đại hội VIII với việc xác định rõ hơn mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.Đại hội IX với việc bổ sung, phát triển quan niệm mục tiêu và phươnghướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.Tóm lại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lýtưởng của Đảng ta, dân tộc ta. Con đường này phù hợp với chủ nghĩa Mác – Lênin và đã được thực tiễn kiểm nghiệm hơn bảy mươi năm qua là hoàn toànđúng đắn. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc của đổi mớimà thực chất là sự kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, kiên định con đường“độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” mà dân tộc Việt Nam đã lựachọn.
II. Về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhànước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
1.Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt NamSự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạngViệt Nam là một tất yếu lịch sử và là tất yếu khách quan. Đảng ta luôn là lựclượng chính trị duy nhất lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo Nhà nước và là nhân tố bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng nước ta trong mọi giai đoạn lịch sử. Sựlãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và mọi mặt của đời sống xã hộiđược nhìn nhận như một quy luật có tính tất yếu.Vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phươngluôn giữ tính chất quyết định và bao quát hầu hết các lĩnh vực của đời sống xãhội.Xây dựng Nhà nước pháp quyền là một chủ trương lớn có tính chất quyếtđịnh thắng lợi công cuộc đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam
. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được thể hiện trên những nộidung trọng yếu sau đây:- Lãnh đạo các cơ quan nhà nước thể chế hoá đường lối, chủ trương,chính sách của Đảng thành pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước và tổchức thực hiện thông qua bộ máy nhà nước, đảm bảo cho đường lối, chủtrương, chính sách của Đảng trở thành hiện thực sinh động trong đời sống toànxã hội.- Đảng lãnh đạo chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng yêucầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủnghĩa của dân, do dân, vì dân.-. Đảng phải lãnh đạo công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động củacác cơ quan nhà nước. Nhìn tổng quát, nội dung Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyềnxã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là rất toàn diện và bao quát toàn bộnhững vấn đề then chốt về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.2. Một số giải pháp chủ yếu xây dựng ĐảngChủ trương của Đảng ta là phải xây dựng một chiến lược bảo vệ Tổ quốcđồng bộ, trên tất cả các mặt trân, có sự tham gia của tất cả các lực lượng xã hội,mà một số giải pháp chủ yếu cụ thể là:Một là, về xây dựng, chỉnh đốn Đảng:
Tiếp tục đi sâu, thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảngtheo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII và Kết luận Hội nghịTrung ương 10 khoá IX, nhất là đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống sự suy thoái vềchính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu;củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.- Đưa tự phê bình và phê bình vào nền nếp sinh hoạt Đảng.- Tăng cường công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ- Đẩy mạnh việc thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ gắn với quyhoạch đào tạo để chuẩn bị tốt nhân sự cho Đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hộilần thứ X của Đảng.
– Tiếp tục củng cố, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trongĐảng và giữa tổ chức Đảng với tổ chức Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thểnhân dân, góp phần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.Hai là, về tư tưởng – văn hoá:- Thực hiện tốt chủ trương tổng kết hoạt động lý luận – thực tiễn của Đảngtrong thời kỳ đổi mới; đẩy mạnh tổng kết thực tiễn sự nghiệp bảo về Tổ quốctrong tình hình mới.- Đổi mới công tác chính trị – tư tưởng sát hợp với từng tầng lợp nhândân, hướng mạnh về cơ sở, đặc biệt quan tâm đến thanh niên, sinh viên, họcsinh; chú trọng giáo dục truyền thống yêu nước, niềm tự hào, tinh thần tự cườngdân tộc, truyền thống dựng nước, giữ nước.- Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chống sự xâmnhập của văn hoá phẩm độc hại từ bên ngoài vào.- Tăng cường tính chủ động, tinh thần đấu tranh chống các luận điệuchống phá nước ta dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc.- Tăng cường lãnh đạo, quản lý công tác thông tin, báo chí, xuất bản, vănhoá, văn nghệ; kịp thời ngăn chăn những quan điểm lệch lạc, thương mại hoá, xarời tôn chỉ mục đích, lộ bí mật quốc gia, gây rối nội bộ, gây khó khăn cho sảnxuất kinh doanh và quan hệ đối ngoại…Ba là, về kinh tế – xã hội:- Gắn tăng trưởng kinh tế với xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướngxã hội chủ nghĩa; bảo đảm vai trò chủ đạo thực sự của kinh tế nhà nước.- Duy trì cho được sự ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh về tài chính- tiền tệ, năng lượng, lương thực, thông tin; không để xảy ra những rối loạn; xáođộng lớn.- Thực hiện tốt các chủ trương, giải pháp về hội nhập kinh tế quốc tế trong Nghị quyết số 07, ngày 27-11-2001 của Bộ Chính trị (khoá IX), phấn đấu sớmgia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), bảo đảm quá trình hội nhập kinhtế quốc tế không gây xáo trộn kinh tế – xã hội.
– Xây dựng có chọn lọc một số công trình, một số ngành, lĩnh vực kinh tếquan trọng, có hiệu quả bảo đảm cho nền kinh tế giữ được độc lập tự chủ trongmọi tình huống.- Giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, nhất là việc làm, xoá đói giảmnghèo; hạn chế bằng được các tệ nạn xã hội nghiêm trọng.- Xây dựng cơ chế để thực hiện có hiệu quả việc kết hợp chặt chẽ giữakinh tế với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế; gắn việcthực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, kinh tế với hoạt động đối ngoại.- Rà soát, bổ sung, hoàn thiện và chỉ đạo có hiệu quả việc thực hiện chiếnlược phát triển kinh tế – xã hội ở các vùng trọng điểm.- Chú trọng phát triển khoa học – công nghệ gắn với nhiệm vụ bảo vệ Tổquốc.Bốn là, quản lý nhà nước về an ninh – quốc phòng – đối ngoại:- Thể chế hoá kịp thời các chủ trương, chính sách về xây dựng nền quốc phòng toàn dân; từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc,trước hết tập trung hoàn chỉnh pháp luật về quốc phòng, an ninh, đối ngoại; xâydựng quy chế thống nhất quản lý đối ngoại và quy chế phối hợp quốc phòng, anninh, đối ngoại.- Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc triển khai thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của các cấp, các ngành, các điạ phương, các đơn vị lực lượng vũtrang.- Tăng cường công tác bảo vệ bí mật quốc gia, bảo đảm an ninh thông tin.- Mở rộng dân chủ trong Đảng và nhân dân trên cơ sở Cương lĩnh, đườnglối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đồng thời chủ động đấu tranh bằng nhiềuhình thức chống các luận điểm sai trái của các thế lực thù địch về dân chủ, nhânquyền, dân tộc, tôn giáo.- Tăng cường mức đầu tư ngân sách hợp lý cho các nhiệm vụ bảo đảmquốc phòng, an ninh, đối ngoại, kể cả cho các hoạt động an ninh trên lĩnh vực tưtưởng, thông tin, đối ngoại nhân dân. Năm là, về quốc phòng, an ninh:
– Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang nhân dân ở các cấp, các ngành.+ Tăng cường chức năng tham mưu của Đảng uỷ Quân sự Trung ương vàĐảng uỷ Công an Trung ương trong lĩnh vực quốc phòng – an ninh+ Kiện toàn Ban Nghiên cứu của Bộ Chính trị về an ninh quốc gia ngangtầm với nhiệm vụ. Chú trọng đào tạo, bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ cấp chiếnlược.+ Tập trung xây dựng các tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân, Công annhân dân thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.- Củng cố và hoàn nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và thế trậnquốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên từng địa bàn tỉnh,thành phố, đặc biệt là trên các địa bàn chiến lược; xây dựng các khu vực phòngthủ vững chắc.- Tập trung xậy dựng lực lược Quân đội và Công an có bản lĩnh chính trịvững vàng, lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, với tổchức, biên chế, mức tăng đầu tư ngân sách hợp lý, đủ sức hoàn thành nhiệm vụtrực tiếp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.Sáu là, về đối ngoại:- Tiếp tục ưu tiên hàng đầu cho việc củng cố quan hệ với các nước lánggiềng.- Thúc đẩy quan hệ với các nước và trung tâm lớn trên nguyên tắc bìnhđẳng, cùng có lợi, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, tạo thế đan xenlợi ích giữa các nước với nước ta; tránh bị rơi vào thế đan xen lợi ích giữa cácnước với nước ta; tránh bị rơi vào thế đối đầu, cô lập hay lệ thuộc.- Mở rộng quan hệ với các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển, phong trào không liên kết, các tổ chức quốc tế và khu vực, các Đảng Cộng sản,công nhân, cánh tả, các phong trào giải phóng và độc lập dân tộc, các phong tràocạch mạng, tiến bộ….; tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thếgiới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
– Dành ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộngvà đa dạng hoá thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ cho sự nghiệp côngnghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo lập lợi ích đan xen với các đối tác.- Gắn kết chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng với hoạt động ngoại giaocủa Nhà nước và nhân dân. Tăng cường công tác vận động cộng đồng ngườiViệt Nam ở nước ngoài góp phần xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời bảovệ quyền lợi hợp pháp của họ.Củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác với các Đảng Cộngsản và công nhân, với các đảng cánh tả, các phong trào giải phóng và độc lậpdân tộc, với các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới
III. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để xây dựng nền kinh tế độclập dân tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Để đảm bảo cho hội nhập kinh tế quốc tế thắng lợi, thực sự đáp ứng yêucầu xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cầnthấu suốt và quán triệt các nguyên tắc và phương châm sau:- Nguyên tắc cơ bản và bao trùm là chủ động hội nhập trên cơ sở bảo đảmgiữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm vững chắc anninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Giữ vững độc lập tự chủ trongquá trình hội nhập được thể hiện trước hết trong quyết sách hội nhập nhằm khaithác tối đa các lợi thế, đồng thời đối phó thắng lợi với các thách thức trong quátrình hội nhập. Sự chủ động cần được thể hiện trong việc chọn lựa các tổ chứctham gia, các đối tác ta có quan hệ và thời điểm tham gia. Tính chủ động cònđược thể hiện qua việc chủ động xây dựng lộ trình hội nhập hợp lý trong khuônkhổ quy định chung; chủ động điều chỉnh pháp luật, chính sách cho phù hợp;chủ động tổ chức sản xuất và điều hành kinh tế trong nước nhằm nâng caokhông ngừng khả năng cạnh tranh không chỉ trong thị trường nội địa và trên thịtrường quốc tế, chủ động phương thức thực hiện các cam kết.- Phương châm cơ bản để thực hiện hội nhập là bảo đảm nguyên tắc cùngcó lợi trong quan hệ song phương và đa phương mà ta tham gia. Theo nguyên10
tắc này một mặt không thể để thiệt hại đến lợi ích cần có và hợp lý mà ta đượchưởng; Mặt khác, phải chấp nhận một sự chia sẻ lợi ích cho các đối tác thì theomức đóng góp của các bên hợp tác. Trong hợp tác liên kết, cần giữ vững nguyêntắc vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết, vừa mềm dẻo, để đạt tới mục tiêu bảo vệ lợi ích chính đáng của ta.
IV. Phương hướng và nhiệm vụ trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong thời gian tới
Toàn Đảng tập trung chỉ đạo xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, tạo sựchuyển biến rõ rệt, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, gắn xây dựng tổ chức đảng và xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở; nhất là đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.Thực hiện những giải pháp đồng bộ, nhất là xây dựng cơ chế đế phát huyquyền làm chủ, quyền giám sát của quần chúng đối với tổ chức đảng, đảng viên.Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ trong Đảng.- Sớm xây dựng và đưa vào thực hiện các quy định mới về vai trò, chứcnăng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở đảng đảm bảo vai trò hạt nhânlãnh đạo chính trị ở cơ sở.- Tổ chức thực hiện các chính sách và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộcơ sở, đặc biệt là ở những khu vực có vị trí quan trọng và nhạy cảm về kinh tế,chính trị, vùng sâu, vùng xa. Cán bộ lãnh đạo chủ trì và cấp ủy cấp trên trực tiếp phải chịu trách nhiệm liên đới nếu để tổ chức cơ sở đảng yếu kém.
V. Không ngừng phấn đấu và rèn luyện để xứng đáng với danh hiệungười Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam
1. Vị trí, vai trò và nhiệm vụ của người Đảng viên
a) Đảng viên là chiến sỹ cách mạng trong đội quân tiên phong của giaicấp công nhân Việt Nam, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. b) Đội ngũ đảng viên là những người có trách nhiệm góp phần xây dựngđường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời có trách nhiệm tổ chứcthực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.c) Đảng viên dù ở cương vị nào, cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là người phục vụ quần chúng.Trong Điều lệ Đảng được các Đại hội của Đảng ban hành, qua nhiều lầnsửa đổi, bổ sung, nhưng chưa bao giờ Chương I luôn là chương Đảng viên và làmột trong những Chương quan trọng nhất. Điều lệ đã chỉ rõ những tiêu chuẩđảng viên, điều kiện những người vào Đảng, nhiệm vụ của đảng viên.15
d) Đảng viên là người kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủtrương của Đảng.
2. Rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu Đảng viên
Để xứng đáng với danh hiệu đảng viên cần thực hiện tốt tiêu chuẩn đảng viênquy định trong Điều lệ Đảng.a) Tiêu chuẩn đảng viênTiêu chuẩn đảng viên là những chuẩn mực quy định chất lượng của ngườiđảng viên, là tiêu chí phân ra giữa đảng viên và quần chúng; là cơ sở để đánh giáchất lượng đảng viên; là căn cứ để tiến hành mọi mặt công tác đảng viên. Mọiđảng viên phải dựa vào tiêu chuẩn đảng viên để rèn luyện, phấn đấu.Đảng viên phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản, kiên định lậptrường cách mạng của giai cấp công nhân, suốt đời phấn đấu cho mục tiêu, lýtưởng của Đảng là xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; vữngvàng, không dao động trước bất kỳ khó khăn, thử thách nào. Những chuẩn mực đạo đức mà người đảng viên cần có, đáp ứng nhữngđòi hỏi của công cuộc đổi mới lúc này bao gồm cả động cơ, tình cảm, ý chí vànhững hành động đạo đức.Có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng trêncơ sở thực hiện đúng các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dânchủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình..Có quan hệ mật thiết với quần chúng.Kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. b) Mỗi đảng viên tự phấn đấu, rèn luyện xứng đáng với danh hiệu ngườicộng sản trong hoàn cảnh mớiKhái niệm “đảng viên” bao hàm hai mặt: cá nhân một con người mangdanh hiệu đảng viên và một thành viên của Đảng (của một tổ chức đảng cụ thểvà của toàn Đảng nói chung). Người đảng viên chỉ xứng đáng với danh hiệu caoquý của mình khi làm tròn bổn phận trên cả hai tư cách đó, nhờ sự phấn đấu của bản thân và sự giúp đỡ, tạo điều kiện của tổ chức đảng.Về mặt cá nhân, trước hết mỗi người đảng viên phải rèn luyện mình theonhững đức tính của con người Việt Nam mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIIIđã chỉ ra và Kết luận Trung ương 10 khóa IX một lần nữa khẳng định, như sau:16
+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc vàchủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu,đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lậpdân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.+ Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.+ Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhânnghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệvà cải thiện môi trường sinh thái.+ Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.+ Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trìnhđộ thẩm mỹ và thể lực.Được kết nạp vào Đảng, rồi trở thành đảng viên chính thức là khởi đầumột quá trình phấn đấu, rèn luyện để giữ vững và nêu cao vai trò người đảngviên. Là đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam, mỗi cán bộ đảng viên phải:- Tích cực học tập và nâng cao trình độ kiến thức về mọi mặt, nhất là vềlý luận chính trị, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, vềvăn hóa, khoa học – kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ.- Luôn phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, đóng góp ý kiến có giá trịtham gia vào sự lãnh đạo chung của tổ chức và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệmvụ được giao.- Tự giác gương mẫu giữ gìn phẩm chất cộng sản, đạo đức của người cáchmạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư- Giữ nghiêm kỷ luật đảng, thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinhhoạt đảng và chăm lo củng cố sự đoàn kết nhất trí của Đảng- Liên hệ mật thiêt với quần chúng; tôn trọng tất cả mọi người; lắng nghetâm tư, nguyện vọng của quần chúng;- Luôn trau dồi phẩm chất đạo đức của người đảng viên cộng sản, phấnđấu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân giao phó.
Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới – Mẫu 3
Câu hỏi 1: Phân tích các nhiệm vụ, quyền hạn của Đảng Viên theo Điều Lệ Đảng
Trả lời
Điều lệ Đảng là văn bản pháp lý cơ bản của Đảng xác định tôn chỉ, mục đích, hệ tư tưởng, các nguyên tắc về tổ chức, hoạt động, cơ cấu bộ máy của Đảng; quy định trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của đảng viên và của tổ chức đảng các cấp. Điều lệ Đảng nhằm tạo nên sự thống nhất trong toàn Đảng.
Điều lệ Đảng gồm 12 chương, 48 điều. Trong đó chương I “ Đảng viên” có 8 điều, là chương rất quan trọng. Điều 2 và điều 3 tại chương này đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Đảng viên.
Điều 2 trong Điều lệ Đảng gồm 4 điểm, quy định nhiệm vụ của Đảng viên như sau.
Trước tiên, đảng viên phải tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng. Sự trung thành này thể hiện ở việc chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Khi đã là đảng viên, cần tin tưởng và làm theo đường lối, chính sách của Đảng đề ra.Bên cạnh đó, đảng viên phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
Đảng viên cần không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh. Bác Hồ đã dạy: “không một phút giây nào được xa rời lý tưởng phấn đấu” và “không bao giờ buông lỏng cuộc đấu trang với chủ nghĩa cá nhân – “kẻ địch còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta. Nó chờ dịp hoặc thất bại, hoặc thắng lợi, để ngóc đầu dậy…” Lời Bác dạy đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. Vậy, đảng viên phải đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay, đảng viên càng cần phải thực hiện cho tốt nhiệm vụ này.
Điều lệ Đảng cũng nêu ra, nhiệm vụ của đảng viên là phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Bác Hồ đã từng nói về đạo đức cách mạnh đối với đảng viên: “Đạo đức cách mạng là hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Do lời nói và việc làm, đảng viên, đoàn viên và cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu”. Đảng viên cần chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở. Đó chính là cách thức hiệu quả nhất để gần gũi và hiểu nhân dân. Ngoài ra, đảng viên có nhiệm vụ tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Mỗi đảng viên chính là hạt nhân để tuyên truyền chính sách, cũng như là chiếc cầu nối giữa Đảng và quần chúng.
Cuối cùng, nhiệm vụ của đảng viên là tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng. Mỗi đảng viên là quần chúng ưu tú được lựa chọn, được bồi dưỡng, được tin cậy và giao phó trách nhiệm cao cả ấy. Bởi vậy, đảng viên phải phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng, thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng. Từng đảng viên cũng làm công tác phát triển đảng viên, sinh hoạt Đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
Để có thể thực hiện tốt những nhiệm vụ trên, mỗi đảng viên cần nắm vững những nội dung cơ bản sau:
Đảng viên cần kiên định những vấn đề về quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng. Đó là những vấn đề về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nền tảng là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Mình, Đảng là lực lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân – thể hiện khối đại đoàn kết toàn dân, nguyên tắc cơ bản là tập trung dân chủ, và kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Đảng viên cần hiểu rõ cơ hội phát triển đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Nhiệm vụ trước mắt là phấn đấu để nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Hiện nay, đất nước ta đang gặp phải những thách thức lớn, những nguy cơ đang đe doại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đảng viên cần nhận thức được để tự giác góp phần đẩy lùi, từng bước khắc phục những khó khăn và nguy cơ đó. Mỗi đảng viên phải ra sức rèn luyện phẩm chất đạo đức, bài trừ thói hư tật xấu. Đặc biệt, đảng viên phải cảnh giác và kiên quyết chống mọi âm mưu và thủ đoạn “ diễn biến hoá bình ”, gây bạo loạn lật đổ của các thế hệ thù địch, trước hết là trong phạm vi chức trách, nhiệm vụ cụ thể của mỗi người.
Nhiệm vụ trung tâm của nước ta hiện nay là xây dựng phát triển kinh tế. Đất nước đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới, đòi hỏi mỗi đảng viên cần nâng cao kiến thức và năng lực, cũng như phẩm chất chính trị đạo đức. Đảng viên phải là người tiên phong, gương mẫu cho quần chúng noi theo.Ví dụ, Đảng viên cần nắm bắt kịp thời những lĩnh vực hiện nay đang có xu hướng phát triển nhanh và mạnh như công nghệ thông tin, khoa học kỹ thuật… Việc trau dồi phẩm chất rất quan trọng để tránh khỏi những tha hoá, biến chất đang ngày một nhiều trong hàng ngũ đảng viên. Vì vậy, nhiệm vụ học tập càng trở nên đặc biệt quan trọng. Đây là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi đảng viên. Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà tổ chức đảng và mỗi đảng viên phải có kế hoạch, phương pháp, hình thức học tập để nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực thực tiễn.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, người đảng viên cần có mối quan hệ mật thiết với quần chúng. Nhân dân lao động cần có Đảng với tư các là người lãnh đạo, lãnh tụ chính trị đảm bảo cho cuộc đấu tranh của nhân dân giành thắng lợi. Lịch sử đã chứng minh qua bao cuộng kháng chiến, nhờ có Đảng mà dân tộc ta đã vùng lên khởi nghĩa thành công, đập tan xiềng xích nô lệ. Và ngược lại, Đảng cần được nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện đường lối chính sách của Đảng. Điều này thể hiện rõ trong công cuộc giữ nước, toàn Đảng toàn dân cùng kháng chiến. Hiện nay trong công cuộc xây dựng đất nước, Đảng càng cần sự ủng hộ của nhân dân để “ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn ”. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đảng viên dễ quan liêu, xa rời nhân dân – đây là 1 nguy cơ lớn đối với tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa. Vậy, mọi đang rviên phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân phản ánh với Đảng, tích cực tuyên truyền vận động nhân dân và gia đình mình thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Cuối cùng, đảng viên chính là những người phải tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối chủ trương, chính sách nghị quyết của Đảng và Nhà nước. Đảng viên cần nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình, đảm bảo đoàn kết nội bộ, làm cho Đảng thêm trong sạch, vững mạnh, đồng thời tích cực làm công tác phát triển Đảng viên mới.
Với những nghĩa vụ như trên, người đảng viên cũng có những quyền hạn được quy định tại điều 3 của Điều lệ Đảng.
Đảng viên được quyền thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, điều lệ Đảng, đường lối chính sách của Đảng. Đảng viên được biểu quyết công việc của Đảng. Đối với nước ta là nước chỉ có 1 đảng cầm quyền, đây thật sự là vinh dự và cũng là trọng trách lớn lao đối với mỗi đảng viên.
Đảng viên được ứng cử, đề cử và bẩu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấo hành Trung Ương.
Đảng viên được quyền phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức Đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức, báo cáo kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời. Quyền hạn này của mỗi đảng viên nhằm giúp cho Đảng ngày càng trong sạch vững mạnh.
Đảng viên được trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.
(Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng )
Vậy, các quyền trên đây của đảng viên nhằm đảm bảo cho đảng viên thực hiện đầy đủ quyền dân chủ về mặt chính trị trong tổ chức và sinh hoạt Đảng, tạo điều kiện cho đảng viên và tổ chức đảng thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tóm lại, việc tìm hiểu, phân tích và nắm rõ các nhiệm vụ, quyền hạn của mình sẽ giúp đảng viên hoàn thành tốt vai trò của bản thân, đóng góp cống hiến hết sức mình cho Đảng, cho đất nước.
Câu 2: Trình bày hướng phấn đấu của bản thân để trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam là lá cờ đầu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Tôi có nguyện vọng được đứng trong hàng ngũ của Đảng, sau khi được học lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng, tôi càng nhận thức được rõ hơn về Đảng Cộng sản và càng quyết tâm phấn đấu để trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tôi đã xác định cho mình động cơ vào Đảng: Đảng là tổ chức các mạng có sứ mệnh cao cả đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập và chủ nghĩa xã hội. Được đứng trong hàng ngũ của Đảng là được đứng trong một tổ chức của những người cùng chung chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội tốt đẹp, dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn mình. Khi vào Đảng, bản thân tôi sẽ được phục vụ cách mạng, được phục vụ nhân dân, được nhân dân tin cậy và yêu mến. Động cơ vào Đảng của tôi là muốn góp sức mình xây dựng đất nước ta ngày càng tốt đẹp hơn nữa.
Để trở thành một đảng viên, tôi xác định bản thân phải rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng. Tôi quyết kiên định mục tiêu, lý tưởng đã chọn, trong bất cứ tình huống khó khăn nào cũng không giao động, giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu. Đồng thời, tôi rèn luyện cho mình tinh thần độc lập, sáng tạo. Bản thân tôi đã nỗ lực học tập, nắm vững lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng. Tôi tự rèn luyện mình qua thực tế hoạt động chính trị, xã hội. Bên cạnh đó tôi trau dồi đạo đức cách mạng, đi đôi với chống chủ nghĩa cá nhân. Đạo đức cách mạng cần phải tu dưỡng rèn luyện suốt đời, bởi vậy tôi sẽ củng cố hàng ngày để có được phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng. Tôi nhận thức được, trong bối cảnh ngày nay, đạo đức cách mạng là ý chí, quyết tâm và góp sức đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh, nhân dân làm chủ xã hội và có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Tôi quyết tâm đi theo đường lối của Đảng: kết hợp hài hoà ba loại lợi ích: lợi ích toàn xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ.
Để phấn đấu trở thành một người đảng viên, tôi không quên nâng cao năng lực, hoàn thành tốt những nghiệm vụ được giao. Đối với một sinh viên như tôi – còn ngồi trên ghế nhà trường, thì nhiệm vụ trọng tâm là việc học. Tôi phấn đấu học tập thật tốt, hoạt động ngoại khoá hăng say và hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó tôi cũng rất coi trọng việc học tập chính trị. Đó là việc tham gia đầy đủ và có hiệu quả các buổi sinh hoạt chính trị công dân sinh viên, tham gia lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng…
Truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự gắn bó mật thiết, máu thịt với nhân dân. Để phấn đấu được đứng trong hàng ngũ của Đảng, tôi hiểu rằng mình phải gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội. Đối với tôi, đó chính là tập thể lớp, là ngôi trường đại học của mình. Tôi cũng tham gia những hoạt động đoàn thể và công tác xã hội, như những buổi ngoại khoá, tình nguyện…
Người phấn đấu vào Đảng phải tích cực tham gia xây dựng Đảng. Tôi nhận thức được rằng, bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tế của mình, cần đóng góp ý kiến với chi bộ, đảng bộ. Ngoài ra, cần tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở bằng những việc làm như: Tích cực hưởng ứng các phong trào, các hoạt động triển khai chủ trương, nhiệm vụ do đảng bộ, chi bộ đề ra với tinh thần chủ động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu cao nhất. Góp phần tích cực đưa những chủ trương, nhiệm vụ đó vào cuộc sống. Chủ động nắm bắt tình hình thực tế, những tư tưởng của quần chúng, kịp thời phản ánh đề xuất với tổ chức Đảng. Tích cực mạnh dạn tham gia góp ý kiến đối với lãnh đạo của tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên. Tích cực và kiên quyết đấu tranh bảo vệ Đảng, giữ vững ổn định chính trị – xã hội ở cơ sở, đơn vị.
Trên đây là những nhận thức và suy nghĩ của bản thân tôi về hướng phấn đấu để trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Dù bản thân còn nhiều hạn chế nhưng tôi sẽ cố gắng hết sức mình để sớm được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Để làm được điều đó, tôi xin hứa sẽ không ngừng học tập và rèn luyện, góp sức mình để xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh.
Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới – Mẫu 4
Phần I. Vị trí, vai trò và nhiệm vụ của người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
1. Vị trí, vai trò của người đảng viên:
– Đảng viên là chiến sỹ cách mạng trong đội quân tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
– Đội ngũ đảng viên là những người có trách nhiệm góp phần xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời có trách nhiệm tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
– Đảng viên dù ở cương vị nào, cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là người phục vụ quần chúng.
– Đảng viên là người kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng.
2. Nhiệm vụ của người đảng viên:
1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt Đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
Phần II. Không ngừng phấn đấu và rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu đảng viên
1. Thực hiện tốt tiêu chuẩn đảng viên được quy định trong Điều lệ Đảng :
Một là, về lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị.
– Đảng viên phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản, kiên định lập trường cách mạng của giai cấp công nhân, suốt đời phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng là xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; vững vàng, không dao động trước bất kỳ khó khăn, thử thách nào. Có mục tiêu, lý tưởng là tiêu chí phân biệt giữa đảng viên và quần chúng.
– Mục tiêu, nhiệm vụ chính trị cụ thể của người đảng viên Việt Nam hiện nay là phấn đấu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện thành công công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, thái độ và sự tham gia tích cực thực hiện đường lối đổi mới là thước đo phẩm chất, năng lực, vai trò tiên phong, gương mẫu của mỗi đảng viên.
Hai là, về nhận thức, kiến thức, năng lực toàn diện thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.
– Lênin đã dặn đi dặn lại những người cộng sản Nga rằng: nếu chỉ có nhiệt tình và lòng dũng cảm không thôi thì không thể chiến thắng được chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, mặc dù nhiệt tình cách mạng và lòng dũng cảm là yếu tố cực kỳ quan trọng. Để chiến thắng chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, những người cộng sản còn phải có kiến thức, có trình độ văn hoá cao, có trí thông minh và năng lực làm việc. Muốn thế, phải không ngừng học tập, học tập một cách kiên trì và nghiêm túc; không bằng lòng với những kinh nghiệm của mình; kiêu ngạo cộng sản là báo hiệu một sự tụt hậu…
– Đổi mới ở nước ta hiện nay là cuộc vận động cách mạng toàn diện và sâu sắc, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngày nay, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá đang tạo ra thời cơ và thách thức với tất cả quốc gia, dân tộc. Rõ ràng, trong tình hình đó, đảng viên phải không ngừng bồi dưỡng những kiến thức văn hoá, khoa học – kỹ thuật, quản lý kinh tế – xã hội, pháp luật… để có đủ năng lực thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Ba là, về phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, mà nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; có tinh thần quốc tế trong sáng, luôn xứng đáng với người lãnh đạo và người đầy tớ trung thành của nhân dân… Những lời dạy đó của Người đến nay vẫn giữ nguyên vẹn giá trị và có ý nghĩa to lớn trong thời kỳ đổi mới.
– Những chuẩn mực đạo đức mà người đảng viên cần có là lòng yêu nước sâu sắc, tôn trọng và hết lòng phục nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có thái độ tích cực ủng hộ xu thế đổi mới, tham gia vào công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng; thống nhất giữa lời nói và việc làm.
– Đạo đức, lối sống mới yêu cầu dũng cảm vạch trần, phê phán những biểu hiện cơ hội, cá nhân chủ nghĩa, những mưu toan dựa vào xu thế và hoàn cảnh đổi mới để tìm kiếm lợi ích riêng cho bản thân mình.
– Tư tưởng và ý thức đạo đức phải đi liền với hành động, trong lao động, trong công việc, trong quan hệ với con người, trong đấu tranh khắc phục mọi tệ nạn và làm lành mạng các quan hệ xã hội.
Bốn là, có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng trên cơ sở thực hiện đúng các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình.
– Đoàn kết trong đảng là yêu cầu tối quan trọng của Đảng Cộng sản. Trong Đảng Cộng sản không thể tồn tại nhiều phái, nhiều phe cánh với lập trường và lợi ích khác nhau. Đoàn kết đã trở thành một truyền thống quý báu của Đảng ta mà tất cả các tổ chức đảng và đảng viên phải ra sức giữ gìn, vun đắp như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Nền tảng của sự đoàn kết trong Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối và các nguyên tắc tổ chức Đảng.
– Sức mạnh của Đảng là ở tính thống nhất: thống nhất quan điểm, thống nhất ý chí, thống nhất hành động. Tập trung dân chủ là nguyên tắc bảo đảm sự thống nhất của Đảng. Vì vậy, mọi cán bộ, đảng viên ở bất cứ cương vị nào đều phải tôn trọng và chấp hành đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
– Đảng viên có trách nhiệm tích cực tham gia thảo luận các vấn đề thuộc về đường lối, chủ trương của Đảng, có quyền chất vấn, tranh luận một cách thẳng thắn; đồng thời chú ý lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác. Khi đã thành quyết định của tập thể thì phải nghiêm túc chấp hành, không được phát ngôn tuỳ tiện hoặc lan truyền những ý kiến, quan điểm riêng của mình bên ngoài các hội nghị Đảng.
Năm là, có quan hệ mật thiết với quần chúng.
– Sức mạnh vô địch của Đảng là ở mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Phát huy dân chủ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Vì vậy, mỗi đảng viên, trước hết là đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, có chức, có quyền, phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của dân, chăm lo đời sống hàng ngày của dân, tìm hiểu nguyện vọng và lắng nghe ý kiến dân, giúp đỡ dân khi gặp khó khăn, kiên quyết đấu tranh chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, gia trưởng, độc đoán, đặc quyền đặc lợi, trù dập, ức hiếp dân và mọi hành vi vi phạm quyền dân chủ của dân. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, một yêu cầu rất cần thiết đối với người đảng viên trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền.
– Sự gắn bó với quần chúng, mối liên hệ mật thiết với quần chúng không chỉ là một tiêu chuẩn của nhân cách đảng viên, mà còn là sự thử thách đặc biệt thể hiện năng lực hoạt động chính trị – thực tiễn, phương pháp và phong cách làm việc của mỗi đảng viên
Sáu là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
– Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế. Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng có nguyên nhân từ đường lối quốc tế đúng đắn của Đảng. Nhiệm vụ của người đảng viên là phải thực hiện đúng đắn đường lối đó của Đảng.
– Bước vào giai đoạn mới, vấn đề đoàn kết quốc tế của cách mạng Việt Nam mang nội dung mới. Đó là, kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nguồn lực bên trong và bên ngoài, làm tốt nghĩa vụ quốc tế trong hoàn cảnh mới.
2. Không ngừng tự phấn đấu, rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu người đảng viên cộng sản:
Khái niệm “đảng viên” bao hàm hai mặt: cá nhân một con người mang danh hiệu đảng viên và một thành viên của Đảng (của một tổ chức đảng cụ thể và của toàn Đảng nói chung). Người đảng viên chỉ xứng đáng với danh hiệu cao quý của mình khi làm tròn bổn phận trên cả hai tư cách đó, nhờ sự phấn đấu của bản thân và sự giúp đỡ, tạo điều kiện của tổ chức đảng.
Về mặt cá nhân: Trước hết mỗi người đảng viên phải rèn luyện mình theo những đức tính của con người Việt Nam, đó là:
– Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
– Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
– Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
– Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
– Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
Về tư cách đảng viên thành viên của tổ chức đảng:
– Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức…, làm mực thước cho người ta bắt chước”. Đối với Đảng, “Chúng ta vào Đảng là để hết lòng hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, làm trọn nhiệm vụ của người đảng viên”
– Yêu cầu của sự phấn đấu là giữ vững, tự khẳng định tư cách người cộng sản của mình và không ngừng vượt lên chính mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “tất cả các đảng viên, cán bộ và chi bộ cần phải thường xuyên ôn lại, tự liên hệ và giữ đúng những tiêu chuẩn của người đảng viên…”, coi đó là cách tốt nhất để xứng đáng với danh hiệu người cộng sản.
– Trong nhiệm vụ năng cao năng lực lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng, Nghị quyết Đại hội X chỉ rõ: từng cán bộ, đảng viên…phải có ý chí phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức, không nể nang, né tránh; kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, suy thoái ở ngay trong bản thân mỗi đảng viên, trong từng tổ chức đảng, cơ quan nơi mình sinh hoạt, công tác, ở trong Đảng và trong xã hội; dũng cảm đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch.
Về vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân:
– Vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân ở nước ta đã xuất hiện từ lâu trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, Đại hội X đã thảo luận, biểu quyết và thông qua chủ trương: “Đảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương”.
– Cơ sở để Đại hội thông qua chủ trương trên là do nước ta đang trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với trình độ phát triển thấp kém của lực lượng sản xuất. Nhiệm vụ trung tâm hiện nay là phát triển kinh tế, giải phóng mạnh mẽ các tiềm năng phát triển trong xã hội, trong đó có trên 3 triệu đảng viên. Đó là thực hiện lời dạy của V.I. Lênin, phải qua “ những bước trung gian”, “ bắc những nhịp cầu nhỏ” từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội.
– Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thành phần kinh tế cùng phát triển bình đẳng và đều là bộ phận cấu thành hữu cơ của nền kinh tế; kinh tế tư nhân không đối lập với kinh tế nhà nước. Phát triển kinh tế tư nhân cũng là để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
– Tuy nhiên, kinh tế tư nhân, do chịu tác động của các quy luật thị trường có thể có những những tác động tiêu cực đến tiêu chuẩn của người đảng viên. Để hạn chế những tác động tiêu cực đó, Nghị quyết Đại hội X yêu cầu đảng viên phải khác với những công dân khác là ngoài việc chấp hành đầy đủ chính sách, pháp luật của Nhà nước, còn phải chấp hành Điều lệ Đảng và những quy định trong Đảng, để làm kinh tế tư nhân nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn và giữ đúng tư cách đảng viên.
– Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung ương 3 khóa X đã thông qua những quy định đối với đảng viên làm kinh tế tư nhân. Nhiệm vụ của mỗi đảng viên khi làm kinh tế tư nhân là phải thực hiện tốt những quy định này.
Phần III. Công tác vận động nhân dân của người đảng viên
1. Quan điểm chỉ đạo công tác vận động nhân dân trong công cuộc đổi mới :
Một là, cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì nhân dân.
– Tư tưởng “lấy dân làm gốc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, nâng lên tầm cao mới, với những nội dung mới.
– Đại hội X của Đảng đã nêu năm bài học chủ yếu rút ra sau 20 năm đổi mới, trong đó có bài học: “đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới” .
Hai là, động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất lợi ích và nghĩa vụ công dân.
– Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước, Đảng đã vạch ra được đường lối, chủ trương đúng đắn, đáp ứng lợi ích, nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, đó là đấu tranh cho quyền dân sinh, dân chủ và lợi ích cao nhất là độc lập, tự do của đất nước. Nhờ đó đã tập hợp được các tầng lớp nhân dân đi theo Đảng làm cách mạng.
– Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc giải quyết quan hệ lợi ích theo nguyên tắc: lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội gắn chặt và thống nhất với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Kết hợp hài hoà lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích địa phương và lợi ích cả nước. Coi trọng lợi ích cá nhân nhưng không tuyệt đối hoá, không chấp nhận chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ dẫn đến mâu thuẫn xã hội gay gắt, làm tổn hại đến lợi ích chung của cộng đồng. Nhờ đó, qua 20 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đại hội X của Đảng khẳng định “kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội…” là một động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Quán triệt quan điểm này mới tạo ra được phong trào hành động cách mạng rộng rãi của các tầng lớp nhân dân.
Ba là, các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng.
– Trong giai đoạn mới của cách mạng phải đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân, vì cơ cấu xã hội – giai cấp, xã hội – dân cư, xã hội – nghề nghiệp… có sự phát triển mới cùng với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, làm cho nhu cầu lợi ích của xã hội, của tổ chức và mỗi cá nhân hết sức đa dạng, phong phú. Mặt khác, trình độ của các tầng lớp nhân dân không đồng nhất, do đó phải có cấp độ khác nhau về hình thức tập hợp. Đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân là hợp với quy luật phát triển của xã hội trong nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế ở nước ta.
– Cùng với hình thức tập hợp nhân dân, Đảng cũng nhấn mạnh đến phương thức và khẩu hiệu vận động nhân dân sao cho phù hợp với trình độ từng đối tượng nhân dân, coi trọng việc vận động bằng các điển hình tiên tiến.
– Theo tinh thần Đại hội X của Đảng, để phát huy dân chủ trong đời sống xã hội đòi hỏi phải phát triển nhiều hình thức trong sinh hoạt xã hội. Vì vậy, bên cạnh việc củng cố, đổi mới tổ chức và hoạt động của các đoàn thể chính trị – xã hội truyền thống, cần khuyến khích phát triển những tổ chức mang tính xã hội, nghề nghiệp, nhân đạo, hữu nghị…, thu hút đông đảo nhân dân thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.
Bốn là, công tác vận động nhân dân là trách nhiệm của Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân.
– Đảng phải lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị làm công tác dân vận nhằm thường xuyên củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, coi trọng công tác kiểm tra việc thực hiện các chủ trương về dân vận, nhất là đối với hệ thống chính quyền.
– Các cấp chính quyền phải chăm lo công tác quần chúng, vì Nhà nước của ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Cần khắc phục tình trạng nhiều cấp chính quyền còn có những biểu hiện coi nhẹ công tác dân vận và coi nhẹ việc xây dựng các tổ chức quần chúng.
– Các tổ chức đoàn thể, các hội nghề nghiệp… cần phải coi trọng công tác vận động đoàn viên, hội viên, phải tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động cho phù hợp với tình hình mới.
– Mọi cán bộ, đảng viên, mọi công chức, viên chức nhà nước đều phải làm tốt công tác dân vận theo chức trách của mình.
2. Nhiệm vụ chủ yếu công tác vận động nhân dân của người đảng viên trong giai đoạn mới :
Một là, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân.
– “Trọng dân” là điểm đầu tiên, điểm gốc, xuất phát từ quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân” và Đảng “phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
– “Gần dân”, đòi hỏi người cán bộ phải có cách tiếp cận tốt với nhân dân, từ thái độ, tác phong, lối sống của mình.
– “Hiểu dân” tức là phải hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng, những yêu cầu và những bức xúc của dân, cả những điều dân nói ra và còn để trong lòng. Đây là vấn đề rất hệ trọng.
– “Học dân” vì trí tuệ và vì sức mạnh của dân là vô tận. Bác Hồ thường dạy cán bộ phải “học dân chúng” để “nâng cao dân chúng”.
– “Có trách nhiệm với dân” chính là quan điểm vì dân. Bác Hồ dạy cán bộ không phải là “quan cách mạng” mà là “người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
Hai là, tuyên truyền, vận động nhân dân, đưa mọi người tham gia vào các tổ chức thích hợp để hoạt động.
– Để làm tốt công tác dân vận phải đặc biệt quan tâm đến việc vận động quần chúng tham gia các tổ chức chính trị – xã hội. Ngay khi về nước, Bác Hồ đã thành lập Mặt trận Việt Minh, tập hợp tất cả các giai cấp, tầng lớp vào tổ chức Việt Minh vận động “không trừ một ai”, nhờ đó đã tạo ra cao trào Cách mạng Tháng Tám, giành được chính quyền trong điều kiện rất khó khăn, phức tạp.
– Trong công tác vận động nhân dân phải lấy thuyết phục làm chính, đó là vấn đề có tính nguyên tắc. Phải kiên trì giáo dục, thuyết phục quần chúng, làm cho quần chúng hiểu rõ chủ trương, chính sách để mọi người tự giác chấp hành. Việc tổ chức động viên quần chúng cần gắn với việc thực hiện các chương trình kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng, chăm lo lợi ích thiết thực của nhân dân, đồng thời nâng cao giác ngộ chính trị cho quần chúng trong các tổ chức Mặt trận, đoàn thể, các hội quần chúng, đưa quần chúng vào các hoạt động trong phong trào cách mạng, phù hợp với trình độ từng đối tượng nhân dân.
Ba là, bồi dưỡng và nhân rộng điển hình và sử dụng quần chúng tiên tiến.
– Phương châm công tác vận động quần chúng là lấy quần chúng vận động quần chúng. Người cán bộ, đảng viên phải biết dựa vào những người tiên tiến, biết nhân rộng, để động viên, thúc đẩy mọi người làm theo.
– Việc bồi dưỡng và nhân rộng điển hình tiên tiến cần phối hợp và thông qua các tổ chức đoàn thể chính trị – xã hội và các tổ chức hội quần chúng. Trong khi sử dụng quần chúng tiên tiến thì tránh việc bỏ rơi quần chúng chậm tiến, cần kiên nhẫn giáo dục, động viên, khích lệ họ tham gia phong trào chung, không nên lạm dụng tổ chức để đả kích, chê trách, dẫn quần chúng dần đến chỗ bất mãn và có khi trở thành những người chống đối, ngăn cản phong trào.
Bốn là, nêu gương cho quần chúng noi theo.
– Đảng lãnh đạo quần chúng không chỉ bằng đường lối, chính sách mà còn thông qua vai trò gương mẫu tiên phong trong nhận thức, trong hành động và trong đạo đức, lối sống, tác phong của từng đảng viên.
-Nhiệm vụ người đảng viên là phải gương mẫu ở nơi làm việc; tuyên truyền vận động gia đình mình thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Mỗi đảng viên đều phải gương mẫu lôi cuốn mọi người thực hiện nghĩa vụ công dân ở nơi cư trú. Đảng viên tham gia các đoàn thể chính trị – xã hội phải gương mẫu để các hội viên khác noi theo. Đảng viên phải thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Đảng viên đi trước, làng nước đi sau”. Có như vậy, mới củng cố lòng tin của quần chúng đối với Đảng.
Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới – Mẫu 5
Câu 1: Đồng chí hãy trình bày 5 bài học lớn của cách mạng Việt nam được nêu trong Cương lĩnh năm 1991. Phân tích bài học mà đồng chí thấy tâm đắc nhất. Ý nghĩa của bài học này đối với công việc của đồng chí ?
Câu 2 : Bản chất giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện ở những điểm chủ yếu nào trong Điều lệ Đảng?
Câu 3 : Đồng chí hãy phân tích sự cần thiết của việc học tập và làm theo tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Liên Hệ việc thực hiện cuộc vận động ở cơ quan, đơn vị đồng chí?
Trả lời
Câu 1 :
Trải dài theo dòng lịch sử của nước nhà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy một điều rằng cách mạng Việt Nam đã đi hết từ thắng lợi này cho tới thắng lợi khác, dưới sự lãnh đạo của Đảng, có cương lĩnh, có đường lối soi sáng chỉ đường, tạo ra những trận đánh lịch sử lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, tạo ra cuộc sống bình yên, ấm no và hạnh phúc cho toàn thể dân tộc ta và được trường tồn tới ngày nay và mãi mãi
Nước đã đang bước vào giai đoạn hồi nhập nhập toàn cầu, cuộc sống ngày càng phát triển mạnh mẽ, quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày càng lên cao, trước những xu thế mới đòi hỏi Đảng ta phải có được cương lĩnh rõ ràng để chỉ lối cho những bến bờ hạnh phúc cho nhân dân, cho nhân loại, và cương lĩnh năm 1991 đã cho chúng ta thấy rõ được những yêu cầu mang tính cần thiết mà chúng ta phải thực hiện được để tô thêm những trang sử vàng cho sự thành công trong con đường hội nhập của đất nước.
Vậy 5 bài học lớn của cách mạng Việt Nam được nêu trong cương lĩnh 1991 được thể hiện như thế nào? chúng ta cùng nhau đi tìm hiểu:
Tổng kết thực tiễn hơn 60 năm của nước ta, trong đó có 5 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, từ những kinh nghiệm thành công và cả những kinh nghiệm chưa thành công, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã nêu ra được 5 bài học lớn của cách mạng Việt Nam:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đây là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Hai vấn đề này có quan hệ hữu cơ với nhau. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra sức mạnh to lớn của dân tộc trong đấu tranh cách mạng, giành thắng lợi.
Hai là, Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để phát huy, nhân lên sức mạnh vĩ đại của nhân dân, sự lãnh đạo và toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân, đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lịch sử lớn, lâu dài của dân tộc ta đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thành công, tạo nên nguồn sức mạnh to lớn để giành thắng lợi.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Sức mạnh dân tộc, sức mạnh trong nước là sức mạnh tổng hợp của nhiều nguồn lực. Sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc tế trước hết là sức mạnh của quy luật và xu thế phát triển không thể đảo ngược của lịch sử nhân loại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Để làm được điều đó, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, đủ sức giải quyết các vấn đề do cuộc sống đặt ra.
Thực chất thì bản thân tôi hoàn toàn tâm đắc tất cả các bài học ở trên, trong tôi qua mỗi bài học tự rút ra được cho mình những bài học quý báu, những kiến thức cần và đủ để có thể trở thành một đảng viên tốt, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, và đóng góp vào sự phát triển chung của Đảng, Nhà nước.
Từ cái nhìn khách quan và cụ thể nhất tôi cũng đưa ra được cho mình Bài học tâm đắc nhất đó là ở bài học lớn thứ hai :
“Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”
Có thể khẳng định một điều rằng: Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để phát huy, nhân lên sức mạnh vĩ đại của nhân dân, sự lãnh đạo và toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân, đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân
Tám mươi mốt năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, dân tộc ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, lập nên những kỳ tích vĩ đại trong cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng, phát triển đất nước, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đưa nhân dân thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than, giành độc lập cho đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám 1945, giải phóng miền Bắc, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp trên đất nước ta, đưa cách mạng nước ta bước sang giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục tiến hành cách mạng giải phóng ở miền Nam.
Trải qua 21 năm chiến đấu, nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài hơn một thế kỉ của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta, hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, non sông thu về một mối. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi vĩ đại nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, đánh dấu bước ngoặt quyết định cho dân tộc Việt Nam tiến vào kỉ nguyên mới- kỉ nguyên độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội.
Sau 30 năm chiến tranh giải phóng, cả nước bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một cuộc chiến đấu “khổng lồ” để loại bỏ những gì cũ kỹ lạc hậu, tạo ra những giá trị “mới mẻ, tốt tươi” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh.
Trong buổi đầu cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ đổi mới, dân tộc ta phải đối diện với bao thách thức, khó khăn gay gắt cả trong nước và quốc tế. Đặc biệt vào thập kỉ 90 của thế kỉ XX, trong bối cảnh quốc tế hết sức phức tạp và tình hình đất nước gặp muôn vàn khó khăn, các thế lực thù địch không ngừng chống phá, nhưng với bản lĩnh kiên cường của một chính đảng cách mạng và khoa học, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định mục tiêu mà Đảng, nhân dân đã lựa chọn, giữ vững vai trò lãnh đạo, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua sóng gió, tiếp tục tiến lên, tiến hành công cuộc đổi mới đạt nhiều thành tựu quan trọng. Đảng đã đề ra và từng bước bổ sung, hoàn thiện đường lối cách mạng một cách đúng đắn, sáng tạo, bước đầu hình thành một hệ thống các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tế nước ta, kế thừa và phát huy giá trị văn hoá và bản sắc dân tộc. Đây là kết quả của một quá trình trăn trở, tìm tòi, tổng kết, đổi mới tư duy lí luận, nhận thức đúng đắn hơn về thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng ngày càng trưởng thành và có thêm kinh nghiệm lãnh đạo nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong hoàn cảnh mới.
Xuyên suốt chặng đường hoạt động cách mạng 80 năm qua, trong các Cương lĩnh (từ Cương lĩnh đầu tiên năm 1930 đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, năm 1991), hay trong mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đều thể hiện rất rõ, Đảng ta không có mục đích nào khác là đấu tranh cho tự do độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử. “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”.
Sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng cũng như những phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc mà Cương lĩnh 1991 của Đảng xác định đều toát lên vị trí, vai trò của nhân dân; đều nhằm giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, hướng tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, mỗi cá nhân đều có điều kiện phát triển toàn diện; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân
Triển khai đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; quyền dân chủ chính trị của nhân dân được khơi dậy, tôn trọng và ngày càng đề cao. Chính sách xã hội thời kỳ đổi mới hướng vào phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội. Đặc biệt, đã tạo được những thành tựu lớn trong thực hiện chiến lược quốc gia xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm, được thế giới ghi nhận và đánh giá cao. Đồng thời, đã kết hợp tốt các nguồn lực của Nhà nước và nhân dân, xây dựng nhiều công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội cho các vùng, miền. Chính trị- xã hội ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường, quan hệ đối ngoại có những bước phát triển mới, đã tạo thêm môi trường thuận lợi để Đảng và Nhà nước ta lãnh đạo tổ chức thực hiện tốt hơn các chương trình, mục tiêu phát triển đất nước.
Qua gần 25 năm đổi mới, đất nước đã vượt qua thử thách hiểm nghèo, phá thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo tiền đề vững chắc để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tất cả thực tiễn phong phú, sôi động, hào hùng của dân tộc ta trong 80 năm qua ngày càng khẳng định rõ hơn nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Đảng vừa tròn 30 tuổi:
“Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.
Đảng ta là đạo đức, là văn minh,
Là thống nhất, độc lập, là hòa bình ấm no”
Đảng ta thật là vĩ đại là bởi vì ”ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc Đảng ta không có lợi ích gì khác”
Đảng ta vĩ đại, trước hết chính vì Đảng tiêu biểu cho sức mạnh trí tuệ của giai cấp công nhân hiện đại, cho tiềm lực tinh thần truyền thống của dân tộc và tiếp thu được những tinh hoa của văn hoá nhân loại. Ngay từ khi thành lập, sức mạnh của Đảng nằm ngay trong ba yếu tố hợp thành của Đảng: chủ nghĩa Mác- Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong, là tổ chức của những chiến sĩ ưu tú nhất của giai cấp công nhân và của toàn thể dân tộc.
Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn đứng vững trên lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lợi ích của nhân dân, của dân tộc, coi đó là điểm xuất phát của mọi đường lối, chủ trương của Đảng. Ngay Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng phản ánh đúng quy luật khách quan, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, đáp ứng đúng yêu cầu của thực tiễn, vạch ra được mục tiêu, phương hướng và giải pháp cơ bản của cách mạng. Từ đó tiến hành tập hợp, tổ chức, động viên toàn thể nhân dân biến đường lối của Đảng thành hành động cách mạng của quần chúng. Tinh thần cơ bản của bản Cương lĩnh ấy được phát triển, cụ thể hoá đáp ứng những nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và từng bước xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ngay sau khi giành được chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì”. Mục tiêu của Đảng là làm cho mọi người dân ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, được sống ấm no và sung sướng; mang lại quyền làm chủ về kinh tế, xã hội cũng là thước đo trình độ giải phóng xã hội, sự phát triển của xã hội.
Lịch sử tám mươi mốt năm xây dựng và phát triển của Đảng đã chứng tỏ, cội nguồn sức mạnh của Đảng không chỉ thể hiện ở chỗ mọi hoạt động của Đảng đều xuất phát vì lợi ích của nhân dân mà còn thể hiện Đảng luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin tưởng, ủng hộ và che chở. Liên hệ mật thiết với nhân dân đã trở thành một truyền thống tốt đẹp của Đảng và cũng là cội nguồn sức mạnh của Đảng trong 81 năm qua. Chính từ thực tiễn cách mạng, Đảng đã nhận thức sâu sắc: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng đã tổ chức và phát huy được lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân”
Là một Đảng cách mạng vì nhân dân, trước hết, đường lối chính trị của Đảng phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân. Lãnh tụ Hồ Chí Minh coi việc hoạch định đường lối chính sách của Đảng không chỉ là công việc của bản thân Đảng mà còn phải biết phát huy trí tuệ của toàn dân vào việc xây dựng đường lối của Đảng: “Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết”. “Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta. Đảng không chỉ có đường lối chính trị xuất phát từ lợi ích chính đáng của quảng đại đa số nhân dân, mà còn thể hiện ở trong tổ chức của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn đặt lợi ích của nhân dân, của dân tộc lên trên hết, đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa làm nên sức mạnh đoàn kết rất đáng tự hào của Đảng ta, đã tạo nên uy tín lãnh đạo của Đảng đối với toàn dân tộc; làm cho Đảng được dân tin, dân phục, dân yêu mến, dân giúp đỡ, ủng hộ và bảo vệ.
Sức mạnh và uy tín của Đảng không chỉ ở đường lối chính trị với mục vì dân mà còn thể hiện ở đức hy sinh, sẵn sàng xả thân vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc của hàng triệu các thế hệ đảng viên trong sự nghiệp cách mạng, đặc biệt trong đấu tranh giành chính quyền cách mạng và trong đấu tranh giải phóng dân tộc.
Nhìn lại chặng đường đấu tranh đầy khó khăn, thử thách nhưng vô cùng oanh liệt của Đảng ta trong một thập kỷ qua, chúng ta càng thấm thía bài học “lấy dân làm gốc”, trân trọng quá khứ, nâng niu giữ gìn những thành quả cách mạng của cách mạng, càng thấm thía và biết ơn vô hạn công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các thế hệ đảng viên đó xả thân vì nền độc lập, thống nhất của đất nước, càng thêm tự hào về Đảng ta, nhân dân và dân tộc ta.
Khi tổng kết những kinh nghiệm quý sau 20 năm đổi mới, một trong những bài học quan trọng hàng đầu được Đại hội X của Đảng đúc kết là bài học “lấy dân làm gốc”: “Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển, đó là chìa khóa của thành công”
Ý nghĩa đối với bản thân :
Là một sinh viên đang còn ngồi trên ghế nhà trường bản thân tôi cũng tự nhận thấy những kiến thức về Đường lối cách mạng Đảng, Tư tưởng Hồ Chí Minh hay chủ nghĩa Mác –Lênin, là cái cốt lõi đưa cho tôi tới được với những quan điểm logic những ý nghĩa vô cùng to lớn về cách mạng, về sự nghiệp cách mạng của dân tộc và tôi biết sự nghiệp cách mạng là của dân tộc, là của nhân dân và vì nhân dân
Tôi đã từng nghe:
“Dân biết , dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
Và
“Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”
Những câu nói bất hủ ấy mà làm tôi luôn hướng về nhân dân, tôi cũng có một suy nghĩ, một ham muốn là làm sao sau này mình sẽ có một phần đóng góp cho sự phát triển chung xã hội,cho sự nâng cao dân trí của người dân
Chuyên ngành tôi nghiên cứu là Giáo Dục Học và tôi ưa thích nó, tôi cũng có ý tưởng là tôi sẽ áp dụng nó vào quá trình làm việc của mình sau này đặc biệt là tham gia vào việc giáo dục những lý tưởng sống, những nhiệm vụ học tập cần thiết, những yêu cầu từ thực tiễn, chống lại những sự cổ hủ lạc hậu. Sẽ tới từng nhà, rà từng đối tượng, bản thân giáo dục là quốc sách hàng đầu là việc quan trọng bậc nhất để đưa sự phát triển của đất nước đi lên, dân trí có tăng lên thì đới sống, cũng như suy nghĩ của nhân dân mới tích cực
Bản thân tôi cũng đang phấn đấu học tốt, để đem tri thức của bản thân để phục vụ toàn dân, vì lợi ích mười năm trồng cây và vì lợi ích trăm năm trồng người,tôi hi vọng trên con đò của tôi trở sẽ được thành công như những tư tưởng lớn của người đem theo hành trang của một Đảng viên trẻ tôi sẽ cố gắng nhiệt huyết đi cùng nhân dân, chia sẻ, tâm sự và thảo luận những nỗi niềm của họ, vì một đất nước phồn vinh và hạnh phúc.
Câu 2:
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay.
Là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất là chủ yếu (với trình độ trí tuệ ngày càng cao, đồng thời cũng ngày càng có những sáng chế, phát minh lý thuyết được ứng dụng ngay trong sản xuất). Vì thế, giai cấp công nhân có vai trò quyết định nhất sự tồn tại và phát triển xã hội.
Vậy ở trong Điều lệ Đảng bản chất của giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện ở những điểm chủ yếu:
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định bản chất giai cấp công nhân của mình.
Trong “Chương trình tóm tắt” được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng khẳng định: “Đảng là đội tiên phong lãnh đạo của đội quân vô sản gồm một số lớn giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”.
Sách lược vắn tắt viết: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được quần chúng”.
Đại hội X đã thông qua sự diễn đạt về Đảng là: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”.
Sự diễn đạt như trên thể hiện ở 2 nội dung sau:
+ Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam và đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
+ Đảng là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
– Xuất phát từ nhận thức khoa học về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
+ Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của CNXHKH. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại nhất của Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Để hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết cần làm rõ khái niệm giai cấp công nhân.
+ Khái niệm giai cấp công nhân (theo Nghị quyết TW 6 khoá X).
– Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.
+ Là 1 lực lượng to lớn, quan trọng trong xã hội, chưa định hình rõ nét, còn có sự biến đổi, phát triển.
+ Thành phần: bao gồm những người lao động chân tay và trí óc.
+ Đặc điểm: làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.
(Tính đến đầu năm 2007, tổng số công nhân nước ta khoảng 9,5 triệu người, chiếm tỷ lệ 11% dân số và 21% lực lượng lao động xã hội, trong đó số lượng công nhân làm việc trong các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khoảng 6,75 triệu người).
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
+ Trước hết phải lãnh đạo tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam, đấu tranh giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính dân chủ nhân dân.
+ Trong giai đoạn cách mạng XHCN, giai cấp công nhân từng bước lãnh đạo nhân dân lao động xây dựng thành công CNXH, không có người bóc lột người, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, bất công.
=> Hai nội dung trên quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình thực hiện. Thể hiện sự nghiệp vĩ đại của giai cấp công nhân là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người và nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
+ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ ý nghĩa, nội dung căn bản, thể hiện cụ thể của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn mới là: Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
– ở nước ta, giai cấp công nhân tuy số lượng còn ít, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam và chính Đảng của mình luôn đứng trên lập trường cách mạng, giữ vững bản chất giai cấp, lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
– Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa giai cấp và dân tộc… Thắng lợi của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ đều bắt nguồn từ việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ mật thiết giữa giai cấp và dân tộc.
+ Trong điều kiện của nước ta, quyền lợi của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc là thống nhất.
+ Sự gắn kết máu thịt giữa Đảng với giai cấp và dân tộc đã được thể hiện ngay từ nguồn gốc ra đời của Đảng ta. Đảng ra đời không chỉ là sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân mà còn với phong trào yêu nước.
– Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định rằng: Đảng ta không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
– Trong báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Đảng (tháng 2 – 1951), Bác chỉ rõ: “Đảng Lao động Việt Nam phải là người lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, trung thành của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của nhân dân Việt Nam… Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”.(Trích Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr. 37 – 38).
– Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo nhân dân. Về vấn đề lợi ích, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài mục đích phục vụ nhân dân, phục vụ dân tộc. Cụ thể:
+ Trên thực tế, Đảng ta ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích không chỉ của giai cấp công nhân mà còn vì lợi ích của nhân dân lao động, của toàn dân tộc.
+ Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta nêu khẩu hiệu: “Độc lập dân tộc” và “Người cày có ruộng”.
+ Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đề ra mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
* Để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong tình hình mới, nhiệm vụ của mỗi đảng viên của Đảng là:
+ Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
+ Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Xuất phát từ thực tiễn lịch sử của nước ta đề ra đường lối, chủ trương và các chính sách đúng đắn; đồng thời bằng hành động cách mạng biến đường lối, chủ trương đó thành hiện thực sinh động trên mọi mặt của đời sống xã hội.
+ Đấu tranh kiên quyết, kịp thời chống lại mọi biểu hiện cơ hội, hữu khuynh, giáo điều, bảo thủ; phê phán những luận điệu và thủ đoạn của các thế lực thù địch phủ nhận, xuyên tạc Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Luôn luôn phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá, tri thức của thời đại để làm giàu kiến thức, giải quyết thành công những vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng nước ta, góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của thế giới.
+ Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
+ Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên theo quan điểm của giai cấp công nhân.
+ Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, chăm lo đời sống và thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
+ Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng.
Có lợi ích giai cấp đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản (giai cấp công nhân: xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa bỏ áp bức bóc lột, giành chính quyền và làm chủ xã hội. Giai cấp tư sản không bao giờ tự rời bỏ những vấn đề cơ bản đó). Do vậy, giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để.
Bất kỳ giai cấp công nhân nước nào, khi đã có đảng tiên phong của nó, đều có những đặc điểm cơ bản, chung nhất đó. Do vậy, giai cấp công nhân mỗi nước đều là một bộ phận không thể tách rời giai cấp công nhân trên toàn thế giới. Vì vậy chủ nghĩa Mác-Lênin mới có quan điểm đúng đắn về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân.
Có ý kiến đã cho rằng : Giai cấp công nhân Việt Nam số người còn ít, không lãnh đạo được cách mạng.
Nói vậy không đúng. Lãnh đạo được hay là không, là do đặc tính cách mạng, chứ không phải do số người nhiều ít của giai cấp. Giai cấp công nhân có chủ nghĩa Mác – Lênin. Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng theo chủ nghĩa Mác – Lênin là Đảng Lao động Việt Nam. Đảng đề ra chủ trương, đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến. Lại có những phần tử trí thức tham gia cách mạng và vô sản hoá. Thành thử đội ngũ chính trị của giai cấp công nhân ngày càng phát triển. Mai sau, công nghệ của ta ngày càng phát triển, thì số công nhân ngày càng tǎng thêm
Trong thời đại ngày nay, bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản vẫn chỉ có thể là bản chất giai cấp của giai cấp công nhân; cơ sở chính trị – xã hội chủ yếu của Đảng Cộng sản phải là giai cấp công nhân trong quá trình phát triển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ; tư duy mới về giai cấp công nhân phải gắn liền với tư duy mới về chủ nghĩa xã hội hiện đại. Có thể nói, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự lạc hậu, bất cập trước đây của Đảng Cộng sản ở một số nước tư bản phát triển là do không nhận thức được điều này. Bởi vậy, ở đó, Đảng Cộng sản dần dần mất cơ sở chính trị – xã hội cần có của mình, gắn liền với những cương lĩnh ngày càng xa rời cuộc sống. Giai cấp công nhân hiện đại, nhân dân lao động không thấy được con đường đi tới một xã hội tốt đẹp hơn, mà đôi khi mất phương hướng và dường như kỳ vọng vào một tương lai nào đó trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại, khi ở đó xuất hiện và phát triển dần một số yếu tố của xã hội mới, nhưng đội tiên phong của giai cấp công nhân hiện đại đã không nhận ra để làm sinh sôi nảy nở.
Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, là Đảng của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Bởi nhiều lẽ: Đảng là con đẻ của hai phong trào: phong trào công nhân và phong trào yêu nước (chứ không chỉ là con đẻ của phong trào công nhân như ở những nước tư bản). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trong đó đặt nhiệm vụ dân tộc lên trên và lên trước, coi nhiệm vụ dân tộc là tiền đề, điều kiện tiên quyết và là cơ sở để hoàn thành nhiệm vụ giai cấp, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng động viên sức mạnh toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, coi cách mạng xã hội chủ nghĩa không chỉ là nhiệm vụ giai cấp mà còn là nhiệm vụ dân tộc, định hướng cho nhiệm vụ dân tộc, bảo đảm độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc triệt để, đưa dân tộc bỏ qua thời đại dân tộc tư sản, tiến vào thời đại dân tộc xã hội chủ nghĩa.
Là Đảng của giai cấp công nhân, trước hết Đảng phải hiểu giai cấp công nhân và dựa vào giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay đã thay đổi rất nhiều (như trên đã phân tích), đang phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, phát triển trong sự phân hóa thường xuyên – một sự phân hóa tích cực. Đó là sự phân hóa trong cơ cấu ngành nghề kinh tế – kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất; trong cơ cấu thành phần kinh tế, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất; trong phân công lao động xã hội
Bản chất giai cấp công nhân của Đảng đã được thể hiện rõ ở trong Điều lệ Đảng hiện lên như một bức tranh toàn cảnh về cái đẹp đẽ và cao cả nhất, hiện thân cho tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất của cha ông ta từ thời kháng chiến, tinh thần ấy vẫn trường tồn tới ngày nay như bản anh hùng ca mãnh liệt cho chúng ta noi theo.
Câu 3:
Sinh ra và lớn lên tại vùng quê thanh bình và giản dị, tôi được thừa hưởng cuộc sống hòa bình trong thế kỷ XXI, được chứng kiến sự đổi thay của đất nước, như một bức tranh muôn màu sắc, tôi được học tập được tu dưỡng, trau dồi kiến thức và được tiếp xúc với nhiều bài học quý báu từ lời dạy của thầy từ câu nói của cô. Tất cả những bài học ấy luôn đọng trong tâm trí tôi như trang sách luôn sát cánh bên tôi vậy !
Tôi đặc biệt thích câu nói khi học Lịch sử lớp 12:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”
Câu nói ấy luôn luôn xuất hiện trong tâm chí tôi như một tuyên ngôn cho tôi vậy. khi nhắc tới cấu nói tôi lại cảm thấy cái gì đó thôi thúc tôi càng phải phấn đấu và rèn luyện nhiều hơn nữa.
Các bạn biết câu nói đó của ai không ?
Lãnh tụ, danh nhân Hồ Chí Minh đấy các bạn ạ. Được viết vào 19/12/1946 Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Đó chỉ là một câu nói trong rất nhiều câu nói mà tôi thích của Người, tất cả những gì thuộc về người tôi cũng đêu thích và tôn vinh như những ý nghĩa cao cả nhất.
Đã qua hơn 10 năm sống trong thế kỷ XXI nhưng tấm gương Hồ Chí Minh vĩ đại luôn được mỗi người dân Việt hướng tới.
Sau gần 5 năm triển khai và thực hiện, Cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã tạo ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức của cán bộ, đảng viên và người lao động. Thông qua nghiên cứu, học tập các chuyên đề về tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, ý thức tiết kiệm và tinh thần tương thân, tương ái… đã giúp cho toàn bộ cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên, toàn dân trong tất cả các đơn vị có những chuyển biến về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Như vậy chúng ta có thể thấy được sự cần thiết của việc học tập và làm theo tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có vai trò rất quan trọng trong công cuộc phát triển của đất nước trên tất cả mọi lĩnh vực. Được thể hiện cụ thể như sau:
Trong thời kỳ đổi mới với bao khó khăn và thử thách từ nhiệm vụ kinh tế – xã hội, an ninh và quốc phòng. Thực tiễn kinh tế – xã hội và những tình huống chiến lược cũng như những nhiệm vụ cụ thể nhiều khi chúng ta tỏ ra bế tắc chỉ vì việc học. Bế tắc không phải chúng ta không chú ý đến việc học tập đối với nền giáo dục quốc dân và đối với bộ máy nhân lực của Chính phủ chúng ta cũng đã làm được rất nhiều việc.
Nếu không, làm sao chúng ta đứng vững cho đến ngày nay với một nhà nước độc lập tự chủ, kinh tế phát triển đều đặn, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Vì vậy, xin được miễn nói những gì là thành tựu. Chỉ xin nói thêm về những thực trạng cần có đổi mới trong việc học tập cho cán bộ và công chức từ giáo huấn Hồ Chí Minh:
Chưa có chương trình cụ thể để gắn việc học với điều kiện của thực tiễn. Làm cái gì thì học cái đó trước, cái đó nhiều, cái đó suốt đời. Đưa người đã học vào bộ máy công chức là chính, lấy người chưa học là phụ (tránh tình trạng hiện nay: sinh viên thất nghiệp, công chức đi học tại chức!).
Đưa thực tiễn vào tất cả các khâu: phân bổ thời gian; bố trí con người “dạy thực tiễn” (như dạy sinh viên hành chính là trưởng phó phòng, chủ tịch, phó chủ tịch, dạy tiếp dân…).
Tiếp cận cách thức đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức trong nước với thế giới để tránh tình trạng bất cập có thể có: một bên là Việt Nam và một bên là thế giới còn lại!
Thiết nghĩ một trong những điều mà giáo huấn Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng Hồ Chí Minh chính là giá trị “đi cùng thời đại” của những giáo huấn đó
1. Đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất, là một hình thái của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực và thang bậc giá trị được xã hội thừa nhận
Đạo đức có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi người sao cho phù hợp với lợi ích của toàn xã hội
Đối với mỗi cá nhân, ý thức và hành vi đạo đức mang tính “bổn phận” diễn ra một cách tự giác, chủ yếu xuất phát từ nhu cầu tinh thần bên trong. Đạo đức của mỗi cá nhân chịu sự tác động của dư luận xã hội, cũng như sự tự kiểm tra bởi chính mình
Đạo đức có chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo dục và chức năng phản ánh.
Chức năng điều chỉnh hành vi
– Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi làm cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển, bảo đảm quan hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng.
Loài người sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi, trong đó có chính trị, pháp quyền và đạo đức…
– Chính trị điều chỉnh hành vi giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia bằng các biện pháp đặc trưng như ngoại giao, kinh tế, hành chính, bạo lực…
– Pháp quyền và đạo đức điều chỉnh hành vi trong quan hệ giữa các cá nhân với cộng đồng bằng các biện pháp đặc trưng là pháp luật và dư luận xã hội, lương tâm. Sự điều chỉnh này, có thể thuận chiều, có thể ngược chiều.
– Điều chỉnh hành vi của đạo đức và pháp quyền khác nhau ở mức độ đòi hỏi và phương thức điều chỉnh.
Pháp quyền thể hiện ra ở pháp luật, là ý chí của giai cấp thống trị buộc mọi người phải tuân theo. Những chuẩn mực của pháp luật được thực hiện bằng ngăn cấm và cưỡng bức (quyền lực công cộng cùng với đội vũ trang đặc biệt, quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù…). Pháp quyền là đạo đức tối thiểu của mỗi cá nhân sống trong cộng đồng.
Đạo đức đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa đối với các hành vi cá nhân. Phương thức điều chỉnh là bằng dư luận xã hội và lương tâm. Những chuẩn mực đạo đức bao gồm cả chuẩn mực ngăn cấm và cả chuẩn mực khuyến khích.
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng dư luận xã hội và lương tâm đòi hỏi từ tối thiểu tới tối đa hành vi con người đã trở thành đặc trưng riêng để phân biệt đạo đức với các hình thái ý thức khác, các hiện tượng xã hội khác và làm thành cái không thể thay thế của đạo đức.
– Mục đích điều chỉnh: bảo đảm sự tồn tại và phát triển xã hội bằng tạo nên quan hệ lợi ích cộng đồng và cá nhân theo nguyên tắc hài hòa lợi ích cộng đồng và cá nhân (và khi cần phải ưu tiên lợi ích cộng đồng).
– Đối tượng điều chỉnh: Hành vi cá nhân (trực tiếp) qua đó điều chỉnh quan hệ cá nhân với cộng đồng (gián tiếp).
– Cách thức điều chỉnh được biểu hiện: Lựa chọn giá trị đạo đức; xác định chương trình của hành vi bởi lý tưởng đạo đức; xác định phương án cho hành vi bưỏi chuẩn mực đạo đức; tạo nên động cơ của hành vi bởi niềm tin, lý tưởng, tình cảm của đạo đức, kiểm soát uốn nắn hành vi bởi dư luận xã hội.
Chức năng điều chỉnh hành vi được thực hiện bởi hai hình thức chủ yếu.
– Xã hội và tập thể tạo dư luận để khen ngợi khuyến khích cái thiện, phê phán mạnh mẽ cái ác.
– Bản thân chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh hành vi cơ sở những chuẩn mực đạo đức xã hội.
Chức năng giáo dục
Con người vươn lên “chân – thiện – mỹ”. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy.
Con người sinh ra bắt gặp hệ thống đạo đức của xã hội. Hệ thống ấy tác động đến con người và con người tác động lại hệ thống. Hệ thống đạo đức do con người tạo ra, nhưng sau khi ra đời hệ thống đạo đức tồn tại như là cái khách quan hoá tác động, chi phối con người.
Xã hội có giai cấp hình thành và tồn tại nhiều hệ thống đạo đức mà các cá nhân chịu sự tác động. Ở đây, môi trường đạo đức: tác động đến đạo đức cá nhân bằng nhận thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nhận thức đạo đức để chuyển hoá đạo đức xã hội thành ý thức đạo đức cá nhân. Thực tiễn đạo đức là hiện thực hoá nội dung giáo dục bằng hành vi đạo đức. Các hành vi đạo đức lặp đi lặp lại trong đời sống xã hội và cá nhân làm cả đạo đức cá nhân và xã hội được củng cố, phát triển thành thói quen, truyền thống, tập quán đạo đức.
Hiệu quả giáo dục đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội, cách thức tổ chức, giáo dục mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục trong quá trình giáo dục.
– Giáo dục đạo đức gắn với tiến bộ đạo đức:
Nhân đạo hóa các quan hệ xã hội và mức độ phổ biến nhân đạo hóa các quan hệ xã hội; sự hoàn thiện của cấu trúc đạo đức và mức độ phổ biến của nó…sẽ giúp chủ thể lựa chọn, đánh giá đúng các hiện tượng xã hội, đánh giá đúng tư cách của người khác hay của cộng đồng cũng như tự đánh giá đúng thông qua mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung, phương thức, hình thức và các bước đi của quá trình giáo dục sẽ giúp mỗi cá nhân và cả cộng đồng tạo ra các hành vi và thực tiễn đạo đức đúng.
Như vậy, chức năng giáo dục của đạo đức cần được hiểu một mặt “giáo dục lẫn nhau trong cộng đồng”, giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và cộng đồng;mặt khác, là sự “ tự giáo dục” ở các cấp độ cá nhân lẫn cấp độ cá nhân lẫn cấp độ cộng đồng.
Chức năng phản ánh
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận thức thông qua sự phản ánh tồn tại xã hội.
Sự phản ánh của đạo đức với hiện thực có đặc điểm riêng khác với các hình thái ý thức khác.
Đạo đức là phương thức đặc biệt của sự chiếm lĩnh thế giới con người. Nếu xét dưới góc độ bản thể luận, đạo đức là hệ thống tinh thần, được quy định bởi tồn tại xã hội. Nhưng xét dưới góc độ xã hội học thì hệ thống tinh thần (nhận thức đạo đức) không tách rời thực tiễn – hành động của con người. Do vậy, đạo đức là hiện tượng xã hội vừa mang tính tinh thần vừa mang tính hành động hiện thực.
Sự nhận thức của đạo đức có đặc điểm:
– Hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức giá trị đạo đức. Và đa số trường hợp có sự hòa quyện ý thức đạo đức với hành động đạo đức. (Khác những khoa học và ứng dụng nghiên cứu thành tựu khoa học có khoảng cách về không gian và thời gian).
– Nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại (hướng ra ngoài) và hướng nội (tự nhận thức – hương vào chính mình, chính chủ thể).
Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mức, giá trị, đời sống đạo đức của xã hội làm đối tượng. Đó là hệ thống giá trị thiện và ác, trách nhiệm và nghĩa vụ, hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống…, những “cách thức và phương tiện” tạo ra các giá trị đạo đức. Nhờ sự nhận thức này mà chủ thể nhận thức đã chuyển hóa đạo đức của xã hội như là cái chung thành ý thức đạo đức của cá nhân như là cái riêng.
Nhận thức hướng nội (tự nhận thức), lấy bản thân mình – chủ thể đạo đức – làm đối tượng nhận thức. Đây là quá trình tự đánh giá, tự thẩm định, tự đối chiếu những nhận thức, hành vi, đạo đức của mình với những chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng. Từ cách nhận thức này mà chủ thể hình thành phát triển thành các quan điểm và nguyên tắc sống: sáng tạo hay chủ động, hy sinh hay hưởng thụ, vị tha hay vị kỷ, hướng thiện hay sa vào cái ác…
Trong tự nhận thức, vai trò của dư luận xã hội và lương tâm là to lớn. Dư luận xã hội là sự bình phẩm, đánh giá từ phía xã hội đối với chủ thể, còn lương tâm là sự phê bình. Cả hai đều giúp chủ thể tái tạo lại giá trị đạo đức của mình – giá trị mà xã hội mong muốn.
Từ nhận thức giúp chủ thể ý thức được trách nhiệm của mình và sẵn sàng để ho thành trách nhiệm đó. Trong cuộc sống có vô số những trách nhiệm như vậy. Nó luôn đặt ra trong quan hệ phong phú giữa chủ thể đạo đức với xã hội, gia đình, bạn bè, đồng chí, đồng đội, tập thể, dân tộc, gia cấp, tổ quốc.
Nhận thức đạo đức (đạo đức phản ánh hiện thực) ở hai trình độ : trình độ thông thường và trình độ lý luận.
– Nhận thức đạo đức ở trình độ thông thường là ý thức thông thường, những giá trị riêng lẻ. Nó đáp ứng nhu cầu đạo đức thông thường đủ để chủ thể xử lý kịp thời trong cuộc sống và sự phát triển bình thường của xã hội. Mọi cá nhân đều có thể và cần phải ảnh ánh đạo đức ở trình độ này.
– Nhận thức đạo đức ở trình độ lý luận là những nhận thức có tính nguyên tắc được chỉ đạo bởi những giá trị đạo đức có tính tổng quát. Trình độ này đáng ứng những đòi hỏi của sự phát triển đạo đức và tiến bộ xã hội. Đây là yếu tố không thể thiếu được trong hệ tư tưởng và hành vi của các gia cấp cầm quyền.
– Nhận thức đạo đức đưa lại tri thức đạo đức, ý thức đạo đức. Các cá nhân, nhờ tri thức đạo đức, ý thức đạo đức xã hội đã nhận thức (trở thành đạo đức cá nhân). Cá nhân hiểu và tin ở các chuẩn mực, lý tưởng giá trị đạo đức xã hội trở thành cơ sở để cá nhân điều chỉnh hành vi, thực hiện đạo đức (hiện thực hóa đạo đức).
2. Về sự suy thoái đạo đức, lỗi sống trong xã hội hiện nay
Quan 20 năm đỗi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tự to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Việc thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân có tiến bộ… Đa số cán bộ, đảng viên phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu năng động, sáng tạo trong công tác, rèn luyện phẩm chất, năng lực, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới
Trong đảng và trong xã hội ta hiện nay xuất hiện tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống. Đó là nguy cơ lớn liên quan tới sự sống còn của Đảng của chế độ.
Sự suy thoái về đạo đức,lối sống được biểu hiện ở các dạng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất là: chủ nghĩa cá nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, buông thả hưởng thụ, thiếu lý tưởng, thiếu ý chí phấn đấu xuất hiện trong tất cá các tầng lớp xã hội.
Thứ hai là: tệ tham nhũng, hối lộ, bòn rút của công, lãng phí diễn ra ở nhiều ngành nhiều lĩnh vực đang trở thành “quốc nạn” gây bức xúc cho nhân dân
Thứ ba là: hành động cơ hội “chạy chọt” vì lợi ích cá nhân khá phổ biến
Thứ tư là: lời nói không đi đôi với việc làm, nói và làm trái với nghị quyết của Đảng, nói nhiều làm ít; phát ngôn tủy tiện, vô nguyên tắc
Thứ năm là: tệ quan liêu, xa dân, lãnh đạo vô cảm trước những khó khăn bức xúc và yêu cầu, đòi hỏi chính đáng của nhân dân
Thứ sáu là : tình trạng suy thoái về đạo đức trong quan hệ gia đình với quan hệ giữa cá nhân và xã hội, như gia trưởng vũ phu bất hiếu
Thứ bảy là: đạo đức nghề nghiệp sa sút ngay cả trong lĩnh vực được xã hội tôn vinh, hiện tượng mê tín dị đoan có chiều hướng lan rộng ảnh hưởng xấu tới thuần phong mĩ tục và trật tự an toàn xã hôi.
Nguyên nhân của tình trạng trên có cả khách quan và chủ quan
Về khách quan: trước hết do tác động tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường đặc biệt là khả năng kích thích lối sống thực dụng của cơ chế này. Sự tác động của đạo đưc, lối sống tư sản hưởng thụ phương tây vào nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và bùng nổ mạng thông tin toàn cầu. các thế lực thù địch phản động đã chủ động khuyến khích lối sống ích kỷ, hưởng thụ, thực dụng trong cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo và gia đình họ coi đó là một trong những biện pháp thực hiện “ diễn biến hòa bình”:
Về nguyên nhân chủ quan: do chúng ta chưa nhận thực đầy đủ sâu sắc vai trò nền tảng của đạo đức trong ổn định, phát triển xã hội và tác động của cơ chế kinh tế thị trường tới đạo đức xã hội trên thực tế chúng ta chưa coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống; thiếu sự tổ chứ, phối hợp cảu các ngành các cấp. một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên và gia đình chưa nêu gương về đạo đức và lối sống
Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống nêu trên đã có tác động lớn đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay. Nó đang làm thay đổi lệch lạc những chuẩn mực thang bậc giá trị truyền thống giá trị tốt đẹp của dân tộc và cách mạng, có tác hại tới sự trường tồn của dân tộc và sự phát triển của đất nước, sự suy thoái về đạo đức của một số bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho nhân dân lo lắng, bất bình, ảnh hưởng xấu tới uy tín và vai trò lãnh đạo cuả tổ chức đảng, đến việc tổ chức thực hiện đường lối chủ trương của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước thực trạng đó tiềm ẩn nhiều nguy cơ, cùng với các nguy cơ khác dẫn tới bất ổn định chính trị xã hội, liên quan đến “sự sống còn của đảng, của chế độ”
Để năng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng ngăn chặn và đẩy lùi suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, trong đảng và trong xã hội, hội nghị trung ương III khóa X của đảng đã ban hành nghị quyết “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí” Ngày 7/11/2006 Bộ Chính Trị Ban Chấp hành TW Đảng ra chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn đảng và xã hội. thực hiện tốt cuộc vận động này sẽ góp phấn quan trọng vào cuộc đấu tranh và đẩy lùi suy thoái về đạo đức, lối sống trong đảng và trong xã hội
Sự cần thiết phải học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
– Hiện nay đất nước đang trên đà đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa trên tất cả các mặt trận, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của người ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, đóng vai trò chủ đạo trong suy nghĩ và hành động của các cấp lãnh đạo và toàn dân.
– Như chúng ta đã biết, lúc sinh thời Bác Hồ của chúng ta đã khẳng định: Đạo đức là gốc của cách mạng. Bác coi đạo đức của con người như gốc của cây, như nguồn của sông. Người luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng và tích cực của đạo đức trong đời sống xã hội. Bởi vậy, học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức, lối sống theo tấm gương Bác Hồ trong giai đoạn hiện nay là điều rất cần thiết và quan trọng.
– Là một cán bộ viên chức, bản thân nhận thức được rằng việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu là một trách nhiệm đối với bản thân để từng bước hoàn thiện mình. Trong cuộc sống đời tư cũng như trong công việc, bản thân luôn xác định rằng: “Việc gì có lợi dù nhỏ cũng làm, việc gì có hại dù nhỏ cũng tránh” và tuyệt đối tránh lãng phí cả về tiền bạc và thời gian, luôn phát huy ý thức bảo vệ của công, gần gũi, sâu sát với quần chúng nhân dân, lấy tiêu chuẩn người cán bộ cách mạng để làm mục tiêu phấn đấu.
Những phẩm chất đạo đức cách mạng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mà cán bộ, đảng viên, công chức phải thường xuyên học tập và noi theo:
+ Những phẩm chất đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
– Trung với nước hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc, phải “tuyệt đối trung thành với Đảng với nhân dân”.
– Tinh thần dân chủ, tôn trọng tập thể, tôn trọng quần chúng nhân dân, luôn luôn quan tâm đến mọi người, gắn bó với nhân dân. Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ tốt đẹp hơn, phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm.
– Cần kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong công tác: biết lao động cần cù, siêng năng và biết tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của nhân dân của đất nước và của bản thân.
– Liêm chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ phải ngay thẳng, không tà, trong sạch, “luôn chí công vô tư” là rất mực công bằng, không có lòng riêng, thiên tư, thiên vị. Đem lòng chí công vô tư đối với người, đối với việc.
+ Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh:
– Trọn đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và nhân loại.
– Kiên định mục đích lý tưởng, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm, khí phách vượt qua khó khăn thử thách.
– Kính trọng nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc, nguyện làm “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
– Nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người, “dành tình thương yêu cho tất cả, chia sẻ với mỗi người nỗi đau”.
– Coi khinh sự sa hoa, sống thật sự cần kiệm giản dị, sống trong sạch, không gợn chút riêng tư.
Đó chỉ là vấn đề lý thuyết còn thực tế thì sao? Gần 5 năm thực hiện cuộc vấn động nước ta đã đạt được những thành tựu gì, các cơ chế về đạo đức có được thay đổi các tình trạng quan tham ô liệu có còn, đó là những cấu hỏi mà không chỉ riêng tôi đưa ra mà nó là tình trạng chung của tất cả chúng ta
Bấy lâu nay chúng ta chỉ thấy được trên lý thuyết còn phần thực hiện hay không thực sự rất khó, đòi hỏi mỗi địa phương có cái nhìn khái quát và toàn diện nhất chứ nhất định khổng thể nhìn nhận bằng những con số trên giấy tờ mà thực tiễn không phản ánh đúng.
Là người dân Việt, là những đảng viên trẻ tương lai chúng ta hãy cần có sự gắn kết giữa lý luận và thực tiễn sao cho phù hợp học tập theo bác như một chuẩn mực một tiền đề cho chúng ta tiến bước đi lên, phấn đấu nỗ lực vì sự phát triển bền vững của đất nước, hãy tạm gác lại lợi ích cá nhân, hãy bỏ qua những xiềng xích bấy lâu mà vì tổ quốc, vì lợi ích của nhân dân mà phục vụ. hãy thể hiện hành động trước tiên, các nhà lãnh đạo hãy thể hiện bằng tất cả những gì mà họ có đi, đừng lời nói rồi bắt người khác phải làm, đừng chỉ là chuyến thăm quan đơn giản mà làm tốn kém bao nhiêu của cải của địa phương, hãy bỏ qua bớt thủ tục để có sự đơn giản, sự thân thiết giữa “quan” và “dân” hãy thể hiện mình là người bình dị và mến khách.
Liên hệ:
Tôi hiện là sinh viên năm thứ 3 chuyên ngành Giáo dục học – Học Viện Quản Lý Giáo Dục bản thân tôi cũng rất tích cực tham gia vào các hoạt động của trường đặc biệt là lĩnh vực tình nguyện. trong quá trình học tập tại trường, Bên phòng công tác – chính trị luôn phát động các cuộc thi liên quan tới Người, về tư tưởng tấm gương và đạo đức Hồ Chí Mình.
Đặc biệt là cuộc thi văn nghệ “ Tiếng hát toàn Học viện với nội dung về Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh năm 2009 thu hút được hấu hết tất cả sinh viên toàn trường tham gia
Là một trường mới được thành lập lên các phong trào đưa ra chưa được toàn diện nhưng đã thu hút được số đông tham gia, các chủ đề luôn được đưa ra về ca ngợi Đảng, Bác Hồ kính yêu
Các cuộc thi không chỉ liên quan tới phòng chính trị dưới sự chỉ đạo của Chi Bộ Đảng nhà trường, còn có sự tham gia tích cực của Đoàn thanh niên Học Viện với các cuộc thi với chủ đề học tấp và làm theo tấm gương đạo đức của Người, gắn kết trong phong trào toàn diện về văn hóa văn nghệ thể dục thể thao
Gắn kết trong phòng trào học tập, chống tiêu cực trong thi cử, thi đua học tập tốt theo gương Bác
Bản thân là bí thư lớp tôi cũng thường xuyên đưa ra những buổi thảo luận ở tại lớp về Tấm gương đạo đức hồ chí mình, đặc biệt là cuộc thi kể chuyện về Bác đã được tất cả thành viên trong chi đoàn tham gia, qua các bài hùng biện về Người chúng tôi càng hiểu thêm về Bác về công lao to lớn, về tư tưởng bất hủ của Người và với nguyện vọng là thế hệ đi sau chúng tôi sẽ cố gắng phát huy tất cả những sở trưởng thế mạnh của mình sao cho hợp với chuẩn mực của đạo đức của tư tưởng của người đã để lại. Tất cả thành viên trong lớp đều học tập đạt kết quả cáo 100% học lực Khá trở lên và cố gắng phấn đấu để trở thành những Đoàn viên tốt để đạt được vào chỉ tiêu học cảm tình Đảng của trường…
Thực hiện đường lối tiết kiệm trong các cuộc thi, các hoạt động, đưa sinh viên tham quan Lăng Chủ Tich để hiểu thêm về lãnh tụ của đất nước….
Từ khi Đảng phát động phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” toàn thể sinh viên Học Viện luôn có ý thức phấn đấu trong công tác học tập, tu dưỡng và rèn luyện bản thân, và đã đạt được nhiều thành tích cao trong công tác của trường, lớp. luôn lấy tư tưởng của người làm ánh sáng soi đường cho chúng ta, tiến bước đi lên như hành trang để tiến tới thành công.
Để thay cho lời kết của mình tôi xin đưa ra hai câu nói bất hủ của Người:
« Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi.”
“Cô giáo, thầy giáo trong chế độ ta cần phải góp phần vào công cuộc xây dựng XHCN. Phải có chí khí cao thượng, phải “tiên ưu, hậu lạc”, nghĩa là khó khăn thì chịu trước thiên hạ, sung sướng thì hưởng sau thiên hạ. Người thầy giáo tốt, thầy giáo xứng đáng là thầy giáo, là người vẻ vang nhất. Dù tên tuổi không đăng lên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy tốt là những anh hùng vô danh….”
Tôi, bạn và bạn nữa…cùng chung tay góp sức vì một Việt Nam bừng sáng trên trường quốc tế, cùng học tập thi đua, nỗ lực tất cả, chúng ta có đầy đủ điều kiện để đi lên, chúng ta phải hứa với lòng mình là sẽ thành công. Cùng đoàn kết gắn bó, hợp sức vì ở đó ta mới thấy mình tự tin hơn, vững vàng hơn
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”