Cảm nhận diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong Trao duyên

Or you want a quick look: 1. Cảm nhận diễn biến tâm trạng Thúy Kiều trong Trao duyên

Cảm nhận diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong Trao duyên – Có thể nói đoạn trích Trao Duyên là đoạn trích đánh dấu một biến cố lớn nhất trong cuộc đời của nhân vật Thúy Kiều. Chỉ gói gọn trong một đoạn thơ ngắn nhưng thông qua đoạn trích Trao duyên người đọc có thể cảm nhận được sự đau khổ, diễn biến tâm trạng cay đắng của Thúy Kiều trước sự trớ trêu về mối tơ duyên của mình và Kim Trọng.

  • Top 9 bài phân tích 12 câu đầu Trao duyên siêu hay
  • Top 4 mẫu cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Trao duyên

Sau đây là một số bài văn mẫu cảm nhận về tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên hay và chi tiết, giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn về đoạn trích.

1. Cảm nhận diễn biến tâm trạng Thúy Kiều trong Trao duyên


Mở bài:

Đoạn trích “Trao duyên” có một vị trí đặc biệt trong kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Về phương diện kết cấu, đoạn thơ đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời nhân vật chính Thúy Kiều: mở đầu cuộc đời lưu lạc, đau khổ. Về phương diện chủ đề, đoạn thơ thể hiện sâu sắc chủ đề bi kịch tình yêu tan vỡ. Về phương diện nghệ thuật, đoạn thơ chứng minh tài nghệ tuyệt vời của Nguyễn Du trong miêu tả nội tâm nhân vật.

Thân bài:

Tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên diễn biến qua ba chặng như ba nấc thang tâm lí. Mở đầu là những lời yêu cầu khẩn thiết của Kiều đối với Vân:

“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

Hai câu thơ cho thấy Kiều vừa khẩn khoản, vừa thiết tha, vừa như đặt cả niềm tin và hi vọng vào Vân. Trong bao từ biểu đạt sự nhờ vả: nhờ, mượn, phiền,…Nguyễn Du đã chọn từ “cậy”. Phải chăng vì chỉ từ “cậy” mới hàm chứa nội dung thông báo nhờ và tin? Lại nữa, tại sao là “chịu lời” mà không phải là “nhận lời”, tại sao “chịu lời” trước rồi mới “thưa” sau? Nếu Kiều trình bày sự việc trước thì chắc gì Vân đã chịu lời. Nói “nhận lời” là đã có ý kiến của người nhận, là có sự tự nguyện của Vân. Nhưng Vân nào đã biết chuyện gì mà tự nguyện hay không tự nguyện. Do vậy phải là “chịu lời”, vì đây là việc Kiều chủ động nài ép Vân, đưa Vân vào hoàn cảnh không nhận không được. Ở đây Kiều hiểu hoàn cảnh khó xử của mình và càng hiểu hoàn cảnh khó xử của cô em gái. Cũng qua đây có thể thấy Nguyễn Du là thi sĩ thật “sâu sắc nước đời”.

Thúy Kiều đã không quá dài lời về hoàn cảnh của mình. Những việc vừa xảy ra ai chẳng rõ. Nhưng bất hạnh của Kiều thì chỉ Vân mới là người thấu hiểu. Bởi chính Vân là người chứng kiến cả hai biến cố của đời Kiều: “Khi gặp chàng Kim” và khi “sóng gió bất kì”. Các mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều lúc này không phải là giữa hiếu và tình. Giải quyết mâu thuẫn giữa hiếu và tình, Kiều đã làm xong, tuy khó khăn nhưng dứt khoát và có phần thanh thản: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Vả lại, nếu là chuyện chữ hiếu thì Kiều đâu phải “cậy”, phải “lạy”, phải “thưa” với cô em gái của mình; việc gá duyên, với Vân là trách nhiệm và nghĩa vụ.

Mâu thuẫn chính được thể hiện qua đoạn trích là “mâu thuẫn giữa tình yêu lứa đôi và hạnh phúc bị tan vỡ”. Sự dở dang, tan vỡ này được thể hiện qua một câu thơ mang sắc thái thành ngữ: “Giữa đường đứt gánh tương tư”. Hình ảnh ẩn dụ “giữa đường đứt gánh” ta đã từng gặp trong ca dao. Thì ra, những đau khổ của Thúy Kiều nào có xa lạ gì với những số phận của người phụ nữ xưa. Tuy nhiên, bi kịch tình yêu tan vỡ của Kiều vẫn là đau đớn hơn bất cứ thiên tình sử nào trong văn học trước đó.

Sau tám câu mở đầu Kiều nói với Vân về nỗi bất hạnh của mình, về sự thấu hiểu hoàn cảnh khó xử của em, Kiều tiếp tục thuyết phục Vân thay nàng trả nghĩa cho Kim Trọng. Kiều nói với Vân bằng những lời tâm sự biểu hiện qua các câu thơ mang phong cách thành ngữ: “tình máu mủ”, “lời nước non”, “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”. Những lời tâm sự có tác dụng thuyết phục. Kiều ràng buộc Vân bằng tình máu mủ, lại khẩn cầu em cho mình chút vui, chút ơn, chút thơm lây vì đức hi sinh cao đẹp của em:

“Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Vừa thuyết phục vừa ràng buộc, ràng buộc nhưng vẫn khẩn cầu, Kiều đã đạt được mục đích: nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Nhưng chính lúc mục đích đạt được là lúc bi kịch tình yêu của Kiều lên tới đỉnh cao. Kiều biết Thúy Vân lấy Kim Trọng là để trả nghĩa, là do “xót tình máu mủ” chứ không phải vì “lời nước non” cho nên Kiều chỉ có thể trao duyên cho Vân, còn tình yêu, nàng đâu có dễ trao. Với tình yêu, Kiều là “người mệnh bạc”. Nàng tìm cách trở về với tình yêu bằng hai con đường: để lại kỉ vật, linh hồn bất tử.

Kiều đã trao lại Vân những kỉ vật. Nàng những mong, bằng kỉ vật, nàng sẽ hiện diện trong tình yêu. Những kỉ vật thiêng liêng và đẹp đẽ: “Chiếc thoa với bức tờ mây”, “phím đàn với mảnh hương nguyền”. Kỉ vật đẹp đẽ bởi nó gắn liền với những ngày đẹp nhất của đời Kiều. Kỉ vật thiêng liêng bởi nó là riêng – chỉ riêng cho Kiều và Kim Trọng. Kiều không muốn trao cho người thứ ba, dù đó là em mình. Bao xót xa trong một từ “của chung”: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. Bao đớn đau trong một từ “ngày xưa”: “Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”.

Hiện thực đẹp đẽ, rực rỡ vừa mới đây thôi đã trở thành quá vãng. Thời gian khách thể bị phá vỡ, nhường chỗ cho thời gian của tâm trạng. Kỉ vật còn đó mà đối với tình yêu, Kiều không hiện diện. Có nghĩa gì đâu khi “chút của tin” còn mà người thì đã mất. Con đường trở về bằng kỉ vật đã không giúp được Kiều.

Kiều tìm đến con đường thứ hai, con đường trở về với tình yêu bằng linh hồn bất tử: “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. Kiều những mong bằng sự trở về ấy nàng có thể trả nghĩa Kim Trọng, nàng sẽ nhận được sự đồng cảm của người thương “Rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Thế nhưng, như có người đã nói, nếu trong thiên tình sử xưa, giọt lệ Mị Nương rơi xuống chén trà và oan hồn Trương Chi được giải tỏa thì trong “Đoạn trường tân thanh”, giọt lệ của chàng Kim không thể làm tan mối tình oan khuất của nàng Kiều. Bởi sự trở về bằng linh hồn bất tử là sự trở về không có gặp gỡ.

Kết thúc đoạn thơ, yếu tố bi kịch không những không giảm mà còn được đẩy lên mức cao hơn. Ấy là lúc sự trở về bằng linh hồn, sự trở về siêu hình bất lực trước những cảm nhận thực tế của người con gái họ Vương. Kiều ý thức rất rõ về cái hiện sinh, cái “bây giờ”: “Trâm gãy gương tan”, “Tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi”.

Kiều ý thức về cái hiện hữu, cái “bây giờ” và Kiều càng thương mình. Ai nỡ trách nàng sau khi thương người, vì người, nàng đã tự thương mình. Nàng có một chút vì mình cũng không phải là vị kỉ mà vẫn là rất mực vị tha. “Vì người” thì hoàn toàn không chút bóng dáng của đau thương cá nhân. Chỉ khi mọi sự “đối với người” đều xong xuôi, bây giờ mới nhìn lại tấm lòng mình, tình cảnh mình. Nỗi đau của nàng sâu nặng biết bao” (Lê Trí Viễn).

Tâm trạng bi kịch của Kiều càng sâu sắc khi trước sự chà đạp của số phận nàng vẫn không thôi khát vọng về một tình yêu thiết tha, vĩnh viễn: “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”, “Trăm nghìn gửi lạy tình quân”. Sự hiện hữu của tình yêu làm Kiều quên đi sự hiện hữu của người em gái. Đang từ đối thoại với Vân, Kiều trở về độc thoại nội tâm và rồi nàng như hướng tất cả về Kim Trọng:

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Trong một câu thơ, tên Kim Trọng được gọi đến hai lần, kèm theo là những thán từ chỉ sự đớn đau, tuyệt vọng “ôi”, “hỡi”. Câu thơ trên ngắt nhịp 3/3 đọc lên như tiếng nấc, để rồi đến câu thơ dưới nhịp thơ dài ra như một lời than. Lời trao duyên kết thúc bằng một lời than, bằng tiếng kêu đớn đau, tuyệt vọng. Tuy nhiên, tình yêu tan vỡ nhưng khát vọng tình yêu được khẳng định. Đó là nét đẹp cao quý của tâm hồn Kiều, là giá trị nhân văn bền vững của “Truyện Kiều”. Đoạn thơ có bi kịch, đau thương nhưng không thê lương, đen tối, trái lại vẫn ngời lên ánh sáng niềm tin vào tình yêu, vào con người.

Kết bài:

Đoạn thơ miêu tả một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng người con gái tội nghiệp Thúy Kiều. Nàng đau khổ, quằn quại đâu phải vì bản thân mình ? Tất cả trái tim yêu thương nàng đành cho người yêu… Tấm lòng vị tha ấy cao đẹp biết chừng nào! Thương người đằm thắm sâu xa, mong muốn cho người được hạnh phúc, còn mình thì chấp nhận thiệt thòi, cam chịu hi sinh, tấm lòng ấy đã gây xúc động thật sự trong lòng người đọc. Đó cũng là nét sáng ngời trong phẩm giá của Thúy Kiều, khiến cho hàng sông mãi với thời gian. Đoạn thơ đồng thời cho ta thấy “sức cảm thông lạ lùng” (Hoài Thanh) của nhà đại thi hào dân tộc đối với những khổ đau và khát vọng tình yêu của con người. Qua đoạn trích “Trao duyên”, ta còn thấy bút pháp miêu tả nội tâm đặc sắc của đại thi hào.

2. Diễn biến tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên


Mở bài:

Tình yêu trong văn học trung đại Việt Nam dường như ít được đề cập đến. Trong các mối tình trung đại, nổi bật nhất phải kể đến mối tình giữa Thúy Kiều và Kim Trọng. Đó là mối tình đẹp bậc nhất nhưng cũng bi kịch bậc nhất của văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Cuộc đời Kiều là một chuỗi ngày bi kịch nhưng bi kịch đau đớn nhất, tác động mạnh mẽ nhất đến cuộc đời Kiều là bi kịch tình yêu của nàng và Kim Trọng. Khi quyết định bán mình chuộc cha, Kiều đã mạnh mẽ bao nhiêu thì đến khi đối diện với tình yêu của bản thân nàng lại càng đau đớn và bất lực bấy nhiêu. Chấp nhận gả cho Mã Giám Sinh, tương lai mù mịt nhưng những điều đó không làm nàng bận lòng. Trong những giây phút này, Kiều chỉ nghĩ đến Kim Trọng. Và nàng đã bất ngờ đưa ra một quyết định cho mối tình này – trao duyên cho Thúy Vân. Tâm trạng Kiều khi ấy đầy những đau đớn giằng xé ấy được thể hiện rõ nét trong đoạn trích “Trao duyên”.

Thân bài

Trước khi phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta cần nắm được vị trí của trích đoạn này trong tác phẩm. Truyện Kiều của Nguyễn Du được cấu tạo theo kết cấu quen thuộc Hội ngộ – Lưu lạc – Đoàn viên. Trong đó, đoạn trích Trao duyên đóng vai trò bản lề – kết thúc chuỗi ngày hạnh phúc và mở đầu cho chuỗi ngày bi kịch.

Sau đêm Kiều và Kim Trọng thề nguyền, Kim Trọng phải trở về Liêu Dương hộ tang chú. Gia đình Kiều lại bị thằng bán tơ vu oan giáng họa. Kiều quyết định bán mình chuộc cha. Chữ hiếu đã xong những vẫn còn chữ tình. Đêm trước khi theo Mã Giám Sinh, Kiều vẫn canh cánh món nợ ân tình với Kim Trọng. Thúy Vân tỉnh giấc đến bên ân cần hỏi han và Kiều nảy ra ý định trao duyên, trao lại mối tình đầu dang dở cho em, nhờ em thay mình trả nghĩa cho chàng Kim. Đây là một nghịch cảnh éo le, một bi kịch đầy nước mắt của cuộc đời Kiều.

READ  Xem chùm ảnh Nhật thực cuối cùng của thập kỷ ở Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới

Diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên được thể hiện rất rõ qua đoạn mở đầu là lời cầu khẩn của Kiều đối với Vân. Tâm trạng nào lúc này thật khó nói. Bởi trao duyên tình của mình cho người khác thật đau đớn và càng khó xử hơn khi nàng ý thức được việc này sẽ ảnh hưởng hệ trọng đến cuộc đời của Thúy Vân.

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Ở hai câu thơ này, tác giả đã tạo ra một tình huống, một không khí đặc biệt. Những lời nói, hành động của Kiều trở nên trang trọng khác thường. Nguyễn Du sử dụng từ “cậy” mà không dùng “nhờ”, dùng “chịu” mà không dùng nhận. Bởi ở từ cậy ngoài nét nghĩa “nhờ” còn mang thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối. Mặt khác, từ “cậy” mang thanh trắc tạo được âm điệu nặng nề gợi được sự quằn quại trong tâm hồn Kiều lúc này. Chị nhờ em với tất cả lòng tin của chị. Dùng “chịu” mà không dùng “nhận”, bởi “nhận” có phần nào tự nguyện còn “chịu” có phần bắt buộc. Kiều dường như đã đưa Vân vào hoàn cảnh không thể chối từ.

“Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Ba động từ nối tiếp nhau ngồi – lạy – thưa gợi nhiều suy nghĩ. Tại sao Kiều lại phải lạy Vân?

Tại sao lại phải lạy rồi mới thưa? “Lạy”, “thưa” vốn là những từ thể hiện thái độ trân trọng, trang nghiêm và kính cẩn – thường dùng để chỉ cho người bề trên hoặc người mình chịu ơn. Ta thấy có sự thay đổi vị thế giữa Kiều và Vân, giữa họ không còn được đặt trong quan hệ chị – em mà đang trong quan hệ người ban ơn – kẻ chịu ơn. Kiều ý thức được sự việc mà nàng nói ra đây sẽ ảnh hưởng đến cả cuộc đời của Vân. Vì vậy, lạy ở đây là lạy cái đức hi sinh của Vân. Kiều đã hạ mình hết mực với một thái độ trang trọng, nghiêm túc.

Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Khi phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta thấy tình yêu dang dở của Kiều và Kim Trọng được trình bày ngắn gọn qua thành ngữ “giữa đường đứt gánh”. Đồng thời sự kết hợp “giữa đường đứt gánh” và “tương tư” đã cụ thể hóa một khái niệm trừu tượng khiến nó như có hình có khối và càng khắc sâu thêm nỗi đau nơi tâm hồn Kiều. Vì thế mà “mặc em” tùy em định liệu nhưng cũng chỉ có duy nhất em là người có thể quyết định mà thôi. Câu thơ tuy không phải lời trao duyên chính thức nhưng đã phần nào ràng buộc.

“Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kỳ

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Kiều điểm qua những sự kiện quan trọng trong cuộc đời mình. Đó là khi nàng gặp chàng Kim và sóng gió bất kỳ xảy ra. Hai sự kiện có sức ảnh hưởng lớn đến Kiều và đồng thời hai sự kiện này cũng được Vân chứng kiến. Những kỉ niệm với Kim Trọng được liệt kê ngắn gọn nhưng cũng đủ cho ta thấy được cái tình khắng khít gắn bó của họ. Có thể thấy, diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, đặc biệt qua những câu thơ này vô cùng xúc động.

Điệp từ “khi” như nhấn mạnh về quãng thời gian tươi đẹp ấy. Nhưng hạnh phúc chưa được bao lâu thì “sóng gió bất kỳ”. Tâm trạng của Kiều lúc này không phải là mâu thuẫn giữa hiếu và tình. Bởi nàng sớm đã lựa chọn chữ hiếu. Nếu bốn câu trên có tính chất thông báo nhưng lời trao duyên vẫn chưa trực tiếp thì đến bốn câu sau Kiều đã trực tiếp đưa ra lý lẽ để thuyết phục em nhận lời.

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Khi phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta nhận thấy ngày xuân ở đây không chỉ mang ý nghĩa là tuổi trẻ mà đó còn là những tháng ngày vui vẻ hạnh phúc ấm êm. Kiều cũng hy vọng ngày dài tháng rộng cùng Kim Trọng sẽ mang lại hạnh phúc cho Vân khi em “chắp mối tơ thừa”. Tuổi trẻ của em là lý do đầu tiên được nàng viện dẫn. Tình máu mủ thiêng liêng mới là lý do quan trọng nhất để thuyết phục Vân nhận lời.

Bên cạnh đó, Kiều còn viện dẫn cái chết của mình. Viện dẫn cái chết không nhằm mục đích đẩy Vân vào tình thế khó xử mà để thể hiện sự toại nguyện, biết ơn của Kiều đối với Vân nếu em đồng ý. Lời thỉnh cầu của Kiều chủ yếu thiên về mặt tình cảm. Kiều luôn đặt mình trong vị thế của người chịu ơn nên lời lẽ của nàng cũng vì thế mà trở nên khẩn khoản tha thiết. Tâm trạng của nàng lúc này chỉ hướng về việc thuyết phục em nhận lời, là tiếng nói của lý trí bỏ qua trái tim đang quặn thắt. Đến đây, diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên đã được đẩy lên cao độ, cho thấy biết bao giằng xé trong tâm hồn nàng Kiều.

Trong quá trình phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta thấy sau khi tìm lý lẽ thuyết phục em, Kiều không để cho Vân có cơ hội nói mà nàng lập tức hành động – trao kỷ vật cho Vân. Gọi là kỷ vật bởi lẽ những vật này chứa đựng biết bao kỷ niệm ngọt ngào của cuộc tình mới chớm.

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung”

Duyên này chính mối tình giữa nàng và Kim Trọng. Mối tình này nàng chỉ nhờ Vân “giữ”, không hoàn toàn trao hẳn cho Vân. Trao kỷ vật chính là sự cụ thể hóa cho trao duyên. Trao kỷ vật cho Vân nhưng lại nói với em đây là “của chung”, biết bao đau đớn trong hai từ “của chung” ấy. Của chung ấy là của ai? Nếu trước kia đó là của Kim – Kiều thì giờ có một sự đổi ngôi Kim – Vân, nhưng còn dường như là Kim – Kiều – Vân. Khi Vân đồng ý nhận lời và nhận kỷ vật là lúc bi kịch trong lòng Kiều bắt đầu trào dâng không sao kìm nén. Tâm trạng, sự đau của Kiều được soi chiếu ở sự đối lập, mâu thuẫn còn – mất, hợp – tan trong cõi âm dương cách trở. Sau khi trao duyên, Kiều tự nhận mình là người mệnh bạc.

“Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”

Bởi lẽ, mất đi tình yêu, mất đi hy vọng cuộc đời nàng giờ đây không còn ý nghĩa. Đau đớn hơn, Kiều lại là người chính tay dập tắt mối tình mới nhóm ấy. Điệp khúc “mệnh bạc” này đã gắn chặt với cuộc đời Kiều. Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta nhận ra những chuỗi ngày bi kịch của tương lai cũng không đau xót bằng cõi lòng nàng đã nát tan ở hiện tại.

“Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương huyền ngày xưa”

Từ “của chung” giờ đã chuyển thành “của tin”. Kỷ vật trao thì đã thành của chung, nhưng kỷ niệm và tình cảm ấy không thể trao trọn nên vẫn là của tin của chỉ Kiều và Kim. Một lần nữa gợi nhắc lại kỷ niệm “phím đàn”, “mảnh hương huyền”, nhưng bao kỷ niệm giờ chỉ còn tồn tại trong ký ức, trong quá khứ xa xăm. Nàng hướng tầm nhìn đến tương lai nhưng tương lai lại càng tuyệt vọng bế tắc.

“Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin chén nước cho người thác oan”

Từ kỷ niệm ngọt ngào của quá khứ, Kiều đã đưa suy nghĩ đến tương lai. Nhưng thế giới tương lai mà Kiều hình dung là một cuộc sống cõi âm mù mịt, tăm tối. Thúy Kiều trăn trở và tiếc nuối mối tình đầu trong trắng với những hẹn thề chưa thể thưc hiện được và nghĩ mình là người chết oan, cho nên ngôn ngữ nói như nửa tỉnh, nửa mê: hiu hiu, hương khói, ngọn cỏ, lá cây…mà thực sự là tâm trạng đớn đau dằn vặt khôn nguôi.

Vẫn đang nói với Vân, đang dặn dò và tâm tình cùng em, nhưng hình như càng nói, Kiều càng dầng quên sự có mặt của em. Nàng chỉ nói một mình, với mình, thầm thì thành tiếng về tương lai mù mịt, thê thảm của chính mình. Đang sống mà nàng lại nói đến cái chết cho thấy nỗi đau của Kiều dồn lên đến đỉnh điểm. Những câu thơ trên khi phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta thấy nó đã có tác dụng giúp thể hiện tình cảm bền chặt, thủy chung và mãnh liệt của Kiều đối với Kim Trọng.

Diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên từ lời tâm sự với Thúy Vân, Kiều chuyển dần sang lời độc thoại với chính bản thân mình. Bất lực, uất ức, nghẹn ngào bắt đầu trào dâng bật thành lời thơ. Tiếng thơ cũng chính là tiếng lòng nàng.

“Bây giờ trâm gãy bình tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Phận sao phận bạc như vôi?

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.”

Hiện tại và quá khứ bỗng trở thành hai khoảng thời gian lạ lẫm. Quá khứ hạnh phúc ngọt ngào bao nhiêu thì hiện giờ đây ngay lúc này nàng chỉ thấy đau đớn đắng cay. Quá khứ được nhắc đến nhưng chỉ qua gợi nhắc “muôn vàn ái ân”. Quá khứ hạnh phúc không thể đong đếm nhưng ngắn ngủi giữa chừng đứt gánh đầy bàng hoàng. Ngỡ như mọi chuyện chỉ mới vừa xảy ra. Đối lập với quá khứ là hiện tại. đó là hiện tại của “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “hoa trôi lỡ làng” gợi sự chia ly muôn vàn xót xa. Ái ân hạnh phúc ngày xưa nay còn đâu.

“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Kiều ý thức được thực tại bẽ bàng, buồn thay cho thân phận mình. Nhưng nàng lại nhận tất cả mọi chuyện về mình, mọi lỗi lầm về mình. Cách sử dụng thán từ kết hợp với điệp từ “Kim lang” cho thấy một tiếng gọi đau đớn, níu kéo trong tuyệt vọng. Trong thời khắc đau đớn của tâm hồn, Kiều vẫn hướng tất cả về phía Kim Trọng. Kiều rơi vào bi kịch đau xót của tình yêu nhưng vẫn mang vẻ đẹp cao thượng của sự hi sinh. Cuộc trao duyên từ biệt trở thành cuộc tử biệt sinh ly.

Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, người đọc nhận thấy ở những dòng thơ này chính là một khối mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều. Kiều trao kỉ vật cho em mà lời gửi trao chất chứa bao đau đớn, giằng xé và chua chát. Trái tim bắt đầu thổn thức và lên tiếng.

Nguyễn Du đã vận dụng thành công phép biện chứng của tâm hồn diễn tả tinh tế từng bước chuyển biến tâm trạng của Kiều. Cách sử dụng từ ngữ kết hợp với hình ảnh giàu giá trị biểu cảm đã diễn tả rõ nét tâm trạng bi kịch giằng xé của Kiều. Còn gì đau đớn hơn khi chính tay mình dập tắt mối tình đầu tươi đẹp. Qua đó, người đọc đồng cảm và thấu hiểu hơn với Kiều.

Kết bài:

Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” là một khúc “đoạn trường” bậc nhất trong thiên “Đoạn trường tân thanh” của cuộc đời Kiều. Với con mắt tinh đời “trông thấu sáu cõi nhân gian”, Nguyễn Du đã tái hiện lại cuộc trao duyên với biết bao cảm xúc ngổn ngang ấy. Qua đó, ta càng thêm hiểu hơn cho Thúy Kiều hiểu hơn cho quyết định trao duyên những tưởng đầy vô lý ấy nhưng lại thấm đượm một tình yêu chân thành mà nàng dành cho Kim Trọng.

READ  Soạn Sử 9 Bài 5: Các nước Đông Nam Á

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Văn học – Tài liệu của Mobitool.

Tham khảo thêm

Cảm nhận diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong Trao duyên – Có thể nói đoạn trích Trao Duyên là đoạn trích đánh dấu một biến cố lớn nhất trong cuộc đời của nhân vật Thúy Kiều. Chỉ gói gọn trong một đoạn thơ ngắn nhưng thông qua đoạn trích Trao duyên người đọc có thể cảm nhận được sự đau khổ, diễn biến tâm trạng cay đắng của Thúy Kiều trước sự trớ trêu về mối tơ duyên của mình và Kim Trọng.

  • Top 9 bài phân tích 12 câu đầu Trao duyên siêu hay
  • Top 4 mẫu cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Trao duyên

Sau đây là một số bài văn mẫu cảm nhận về tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên hay và chi tiết, giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn về đoạn trích.

1. Cảm nhận diễn biến tâm trạng Thúy Kiều trong Trao duyên


Mở bài:

Đoạn trích “Trao duyên” có một vị trí đặc biệt trong kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Về phương diện kết cấu, đoạn thơ đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời nhân vật chính Thúy Kiều: mở đầu cuộc đời lưu lạc, đau khổ. Về phương diện chủ đề, đoạn thơ thể hiện sâu sắc chủ đề bi kịch tình yêu tan vỡ. Về phương diện nghệ thuật, đoạn thơ chứng minh tài nghệ tuyệt vời của Nguyễn Du trong miêu tả nội tâm nhân vật.

Thân bài:

Tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên diễn biến qua ba chặng như ba nấc thang tâm lí. Mở đầu là những lời yêu cầu khẩn thiết của Kiều đối với Vân:

“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

Hai câu thơ cho thấy Kiều vừa khẩn khoản, vừa thiết tha, vừa như đặt cả niềm tin và hi vọng vào Vân. Trong bao từ biểu đạt sự nhờ vả: nhờ, mượn, phiền,…Nguyễn Du đã chọn từ “cậy”. Phải chăng vì chỉ từ “cậy” mới hàm chứa nội dung thông báo nhờ và tin? Lại nữa, tại sao là “chịu lời” mà không phải là “nhận lời”, tại sao “chịu lời” trước rồi mới “thưa” sau? Nếu Kiều trình bày sự việc trước thì chắc gì Vân đã chịu lời. Nói “nhận lời” là đã có ý kiến của người nhận, là có sự tự nguyện của Vân. Nhưng Vân nào đã biết chuyện gì mà tự nguyện hay không tự nguyện. Do vậy phải là “chịu lời”, vì đây là việc Kiều chủ động nài ép Vân, đưa Vân vào hoàn cảnh không nhận không được. Ở đây Kiều hiểu hoàn cảnh khó xử của mình và càng hiểu hoàn cảnh khó xử của cô em gái. Cũng qua đây có thể thấy Nguyễn Du là thi sĩ thật “sâu sắc nước đời”.

Thúy Kiều đã không quá dài lời về hoàn cảnh của mình. Những việc vừa xảy ra ai chẳng rõ. Nhưng bất hạnh của Kiều thì chỉ Vân mới là người thấu hiểu. Bởi chính Vân là người chứng kiến cả hai biến cố của đời Kiều: “Khi gặp chàng Kim” và khi “sóng gió bất kì”. Các mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều lúc này không phải là giữa hiếu và tình. Giải quyết mâu thuẫn giữa hiếu và tình, Kiều đã làm xong, tuy khó khăn nhưng dứt khoát và có phần thanh thản: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Vả lại, nếu là chuyện chữ hiếu thì Kiều đâu phải “cậy”, phải “lạy”, phải “thưa” với cô em gái của mình; việc gá duyên, với Vân là trách nhiệm và nghĩa vụ.

Mâu thuẫn chính được thể hiện qua đoạn trích là “mâu thuẫn giữa tình yêu lứa đôi và hạnh phúc bị tan vỡ”. Sự dở dang, tan vỡ này được thể hiện qua một câu thơ mang sắc thái thành ngữ: “Giữa đường đứt gánh tương tư”. Hình ảnh ẩn dụ “giữa đường đứt gánh” ta đã từng gặp trong ca dao. Thì ra, những đau khổ của Thúy Kiều nào có xa lạ gì với những số phận của người phụ nữ xưa. Tuy nhiên, bi kịch tình yêu tan vỡ của Kiều vẫn là đau đớn hơn bất cứ thiên tình sử nào trong văn học trước đó.

Sau tám câu mở đầu Kiều nói với Vân về nỗi bất hạnh của mình, về sự thấu hiểu hoàn cảnh khó xử của em, Kiều tiếp tục thuyết phục Vân thay nàng trả nghĩa cho Kim Trọng. Kiều nói với Vân bằng những lời tâm sự biểu hiện qua các câu thơ mang phong cách thành ngữ: “tình máu mủ”, “lời nước non”, “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”. Những lời tâm sự có tác dụng thuyết phục. Kiều ràng buộc Vân bằng tình máu mủ, lại khẩn cầu em cho mình chút vui, chút ơn, chút thơm lây vì đức hi sinh cao đẹp của em:

“Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Vừa thuyết phục vừa ràng buộc, ràng buộc nhưng vẫn khẩn cầu, Kiều đã đạt được mục đích: nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Nhưng chính lúc mục đích đạt được là lúc bi kịch tình yêu của Kiều lên tới đỉnh cao. Kiều biết Thúy Vân lấy Kim Trọng là để trả nghĩa, là do “xót tình máu mủ” chứ không phải vì “lời nước non” cho nên Kiều chỉ có thể trao duyên cho Vân, còn tình yêu, nàng đâu có dễ trao. Với tình yêu, Kiều là “người mệnh bạc”. Nàng tìm cách trở về với tình yêu bằng hai con đường: để lại kỉ vật, linh hồn bất tử.

Kiều đã trao lại Vân những kỉ vật. Nàng những mong, bằng kỉ vật, nàng sẽ hiện diện trong tình yêu. Những kỉ vật thiêng liêng và đẹp đẽ: “Chiếc thoa với bức tờ mây”, “phím đàn với mảnh hương nguyền”. Kỉ vật đẹp đẽ bởi nó gắn liền với những ngày đẹp nhất của đời Kiều. Kỉ vật thiêng liêng bởi nó là riêng – chỉ riêng cho Kiều và Kim Trọng. Kiều không muốn trao cho người thứ ba, dù đó là em mình. Bao xót xa trong một từ “của chung”: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. Bao đớn đau trong một từ “ngày xưa”: “Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”.

Hiện thực đẹp đẽ, rực rỡ vừa mới đây thôi đã trở thành quá vãng. Thời gian khách thể bị phá vỡ, nhường chỗ cho thời gian của tâm trạng. Kỉ vật còn đó mà đối với tình yêu, Kiều không hiện diện. Có nghĩa gì đâu khi “chút của tin” còn mà người thì đã mất. Con đường trở về bằng kỉ vật đã không giúp được Kiều.

Kiều tìm đến con đường thứ hai, con đường trở về với tình yêu bằng linh hồn bất tử: “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. Kiều những mong bằng sự trở về ấy nàng có thể trả nghĩa Kim Trọng, nàng sẽ nhận được sự đồng cảm của người thương “Rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Thế nhưng, như có người đã nói, nếu trong thiên tình sử xưa, giọt lệ Mị Nương rơi xuống chén trà và oan hồn Trương Chi được giải tỏa thì trong “Đoạn trường tân thanh”, giọt lệ của chàng Kim không thể làm tan mối tình oan khuất của nàng Kiều. Bởi sự trở về bằng linh hồn bất tử là sự trở về không có gặp gỡ.

Kết thúc đoạn thơ, yếu tố bi kịch không những không giảm mà còn được đẩy lên mức cao hơn. Ấy là lúc sự trở về bằng linh hồn, sự trở về siêu hình bất lực trước những cảm nhận thực tế của người con gái họ Vương. Kiều ý thức rất rõ về cái hiện sinh, cái “bây giờ”: “Trâm gãy gương tan”, “Tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi”.

Kiều ý thức về cái hiện hữu, cái “bây giờ” và Kiều càng thương mình. Ai nỡ trách nàng sau khi thương người, vì người, nàng đã tự thương mình. Nàng có một chút vì mình cũng không phải là vị kỉ mà vẫn là rất mực vị tha. “Vì người” thì hoàn toàn không chút bóng dáng của đau thương cá nhân. Chỉ khi mọi sự “đối với người” đều xong xuôi, bây giờ mới nhìn lại tấm lòng mình, tình cảnh mình. Nỗi đau của nàng sâu nặng biết bao” (Lê Trí Viễn).

Tâm trạng bi kịch của Kiều càng sâu sắc khi trước sự chà đạp của số phận nàng vẫn không thôi khát vọng về một tình yêu thiết tha, vĩnh viễn: “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”, “Trăm nghìn gửi lạy tình quân”. Sự hiện hữu của tình yêu làm Kiều quên đi sự hiện hữu của người em gái. Đang từ đối thoại với Vân, Kiều trở về độc thoại nội tâm và rồi nàng như hướng tất cả về Kim Trọng:

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Trong một câu thơ, tên Kim Trọng được gọi đến hai lần, kèm theo là những thán từ chỉ sự đớn đau, tuyệt vọng “ôi”, “hỡi”. Câu thơ trên ngắt nhịp 3/3 đọc lên như tiếng nấc, để rồi đến câu thơ dưới nhịp thơ dài ra như một lời than. Lời trao duyên kết thúc bằng một lời than, bằng tiếng kêu đớn đau, tuyệt vọng. Tuy nhiên, tình yêu tan vỡ nhưng khát vọng tình yêu được khẳng định. Đó là nét đẹp cao quý của tâm hồn Kiều, là giá trị nhân văn bền vững của “Truyện Kiều”. Đoạn thơ có bi kịch, đau thương nhưng không thê lương, đen tối, trái lại vẫn ngời lên ánh sáng niềm tin vào tình yêu, vào con người.

Kết bài:

Đoạn thơ miêu tả một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng người con gái tội nghiệp Thúy Kiều. Nàng đau khổ, quằn quại đâu phải vì bản thân mình ? Tất cả trái tim yêu thương nàng đành cho người yêu… Tấm lòng vị tha ấy cao đẹp biết chừng nào! Thương người đằm thắm sâu xa, mong muốn cho người được hạnh phúc, còn mình thì chấp nhận thiệt thòi, cam chịu hi sinh, tấm lòng ấy đã gây xúc động thật sự trong lòng người đọc. Đó cũng là nét sáng ngời trong phẩm giá của Thúy Kiều, khiến cho hàng sông mãi với thời gian. Đoạn thơ đồng thời cho ta thấy “sức cảm thông lạ lùng” (Hoài Thanh) của nhà đại thi hào dân tộc đối với những khổ đau và khát vọng tình yêu của con người. Qua đoạn trích “Trao duyên”, ta còn thấy bút pháp miêu tả nội tâm đặc sắc của đại thi hào.

2. Diễn biến tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên


Mở bài:

Tình yêu trong văn học trung đại Việt Nam dường như ít được đề cập đến. Trong các mối tình trung đại, nổi bật nhất phải kể đến mối tình giữa Thúy Kiều và Kim Trọng. Đó là mối tình đẹp bậc nhất nhưng cũng bi kịch bậc nhất của văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Cuộc đời Kiều là một chuỗi ngày bi kịch nhưng bi kịch đau đớn nhất, tác động mạnh mẽ nhất đến cuộc đời Kiều là bi kịch tình yêu của nàng và Kim Trọng. Khi quyết định bán mình chuộc cha, Kiều đã mạnh mẽ bao nhiêu thì đến khi đối diện với tình yêu của bản thân nàng lại càng đau đớn và bất lực bấy nhiêu. Chấp nhận gả cho Mã Giám Sinh, tương lai mù mịt nhưng những điều đó không làm nàng bận lòng. Trong những giây phút này, Kiều chỉ nghĩ đến Kim Trọng. Và nàng đã bất ngờ đưa ra một quyết định cho mối tình này – trao duyên cho Thúy Vân. Tâm trạng Kiều khi ấy đầy những đau đớn giằng xé ấy được thể hiện rõ nét trong đoạn trích “Trao duyên”.

Thân bài

Trước khi phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta cần nắm được vị trí của trích đoạn này trong tác phẩm. Truyện Kiều của Nguyễn Du được cấu tạo theo kết cấu quen thuộc Hội ngộ – Lưu lạc – Đoàn viên. Trong đó, đoạn trích Trao duyên đóng vai trò bản lề – kết thúc chuỗi ngày hạnh phúc và mở đầu cho chuỗi ngày bi kịch.

Sau đêm Kiều và Kim Trọng thề nguyền, Kim Trọng phải trở về Liêu Dương hộ tang chú. Gia đình Kiều lại bị thằng bán tơ vu oan giáng họa. Kiều quyết định bán mình chuộc cha. Chữ hiếu đã xong những vẫn còn chữ tình. Đêm trước khi theo Mã Giám Sinh, Kiều vẫn canh cánh món nợ ân tình với Kim Trọng. Thúy Vân tỉnh giấc đến bên ân cần hỏi han và Kiều nảy ra ý định trao duyên, trao lại mối tình đầu dang dở cho em, nhờ em thay mình trả nghĩa cho chàng Kim. Đây là một nghịch cảnh éo le, một bi kịch đầy nước mắt của cuộc đời Kiều.

READ  Máy biến áp trong nguồn điện

Diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên được thể hiện rất rõ qua đoạn mở đầu là lời cầu khẩn của Kiều đối với Vân. Tâm trạng nào lúc này thật khó nói. Bởi trao duyên tình của mình cho người khác thật đau đớn và càng khó xử hơn khi nàng ý thức được việc này sẽ ảnh hưởng hệ trọng đến cuộc đời của Thúy Vân.

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Ở hai câu thơ này, tác giả đã tạo ra một tình huống, một không khí đặc biệt. Những lời nói, hành động của Kiều trở nên trang trọng khác thường. Nguyễn Du sử dụng từ “cậy” mà không dùng “nhờ”, dùng “chịu” mà không dùng nhận. Bởi ở từ cậy ngoài nét nghĩa “nhờ” còn mang thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối. Mặt khác, từ “cậy” mang thanh trắc tạo được âm điệu nặng nề gợi được sự quằn quại trong tâm hồn Kiều lúc này. Chị nhờ em với tất cả lòng tin của chị. Dùng “chịu” mà không dùng “nhận”, bởi “nhận” có phần nào tự nguyện còn “chịu” có phần bắt buộc. Kiều dường như đã đưa Vân vào hoàn cảnh không thể chối từ.

“Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Ba động từ nối tiếp nhau ngồi – lạy – thưa gợi nhiều suy nghĩ. Tại sao Kiều lại phải lạy Vân?

Tại sao lại phải lạy rồi mới thưa? “Lạy”, “thưa” vốn là những từ thể hiện thái độ trân trọng, trang nghiêm và kính cẩn – thường dùng để chỉ cho người bề trên hoặc người mình chịu ơn. Ta thấy có sự thay đổi vị thế giữa Kiều và Vân, giữa họ không còn được đặt trong quan hệ chị – em mà đang trong quan hệ người ban ơn – kẻ chịu ơn. Kiều ý thức được sự việc mà nàng nói ra đây sẽ ảnh hưởng đến cả cuộc đời của Vân. Vì vậy, lạy ở đây là lạy cái đức hi sinh của Vân. Kiều đã hạ mình hết mực với một thái độ trang trọng, nghiêm túc.

Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Khi phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta thấy tình yêu dang dở của Kiều và Kim Trọng được trình bày ngắn gọn qua thành ngữ “giữa đường đứt gánh”. Đồng thời sự kết hợp “giữa đường đứt gánh” và “tương tư” đã cụ thể hóa một khái niệm trừu tượng khiến nó như có hình có khối và càng khắc sâu thêm nỗi đau nơi tâm hồn Kiều. Vì thế mà “mặc em” tùy em định liệu nhưng cũng chỉ có duy nhất em là người có thể quyết định mà thôi. Câu thơ tuy không phải lời trao duyên chính thức nhưng đã phần nào ràng buộc.

“Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kỳ

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Kiều điểm qua những sự kiện quan trọng trong cuộc đời mình. Đó là khi nàng gặp chàng Kim và sóng gió bất kỳ xảy ra. Hai sự kiện có sức ảnh hưởng lớn đến Kiều và đồng thời hai sự kiện này cũng được Vân chứng kiến. Những kỉ niệm với Kim Trọng được liệt kê ngắn gọn nhưng cũng đủ cho ta thấy được cái tình khắng khít gắn bó của họ. Có thể thấy, diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, đặc biệt qua những câu thơ này vô cùng xúc động.

Điệp từ “khi” như nhấn mạnh về quãng thời gian tươi đẹp ấy. Nhưng hạnh phúc chưa được bao lâu thì “sóng gió bất kỳ”. Tâm trạng của Kiều lúc này không phải là mâu thuẫn giữa hiếu và tình. Bởi nàng sớm đã lựa chọn chữ hiếu. Nếu bốn câu trên có tính chất thông báo nhưng lời trao duyên vẫn chưa trực tiếp thì đến bốn câu sau Kiều đã trực tiếp đưa ra lý lẽ để thuyết phục em nhận lời.

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Khi phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta nhận thấy ngày xuân ở đây không chỉ mang ý nghĩa là tuổi trẻ mà đó còn là những tháng ngày vui vẻ hạnh phúc ấm êm. Kiều cũng hy vọng ngày dài tháng rộng cùng Kim Trọng sẽ mang lại hạnh phúc cho Vân khi em “chắp mối tơ thừa”. Tuổi trẻ của em là lý do đầu tiên được nàng viện dẫn. Tình máu mủ thiêng liêng mới là lý do quan trọng nhất để thuyết phục Vân nhận lời.

Bên cạnh đó, Kiều còn viện dẫn cái chết của mình. Viện dẫn cái chết không nhằm mục đích đẩy Vân vào tình thế khó xử mà để thể hiện sự toại nguyện, biết ơn của Kiều đối với Vân nếu em đồng ý. Lời thỉnh cầu của Kiều chủ yếu thiên về mặt tình cảm. Kiều luôn đặt mình trong vị thế của người chịu ơn nên lời lẽ của nàng cũng vì thế mà trở nên khẩn khoản tha thiết. Tâm trạng của nàng lúc này chỉ hướng về việc thuyết phục em nhận lời, là tiếng nói của lý trí bỏ qua trái tim đang quặn thắt. Đến đây, diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên đã được đẩy lên cao độ, cho thấy biết bao giằng xé trong tâm hồn nàng Kiều.

Trong quá trình phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta thấy sau khi tìm lý lẽ thuyết phục em, Kiều không để cho Vân có cơ hội nói mà nàng lập tức hành động – trao kỷ vật cho Vân. Gọi là kỷ vật bởi lẽ những vật này chứa đựng biết bao kỷ niệm ngọt ngào của cuộc tình mới chớm.

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung”

Duyên này chính mối tình giữa nàng và Kim Trọng. Mối tình này nàng chỉ nhờ Vân “giữ”, không hoàn toàn trao hẳn cho Vân. Trao kỷ vật chính là sự cụ thể hóa cho trao duyên. Trao kỷ vật cho Vân nhưng lại nói với em đây là “của chung”, biết bao đau đớn trong hai từ “của chung” ấy. Của chung ấy là của ai? Nếu trước kia đó là của Kim – Kiều thì giờ có một sự đổi ngôi Kim – Vân, nhưng còn dường như là Kim – Kiều – Vân. Khi Vân đồng ý nhận lời và nhận kỷ vật là lúc bi kịch trong lòng Kiều bắt đầu trào dâng không sao kìm nén. Tâm trạng, sự đau của Kiều được soi chiếu ở sự đối lập, mâu thuẫn còn – mất, hợp – tan trong cõi âm dương cách trở. Sau khi trao duyên, Kiều tự nhận mình là người mệnh bạc.

“Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”

Bởi lẽ, mất đi tình yêu, mất đi hy vọng cuộc đời nàng giờ đây không còn ý nghĩa. Đau đớn hơn, Kiều lại là người chính tay dập tắt mối tình mới nhóm ấy. Điệp khúc “mệnh bạc” này đã gắn chặt với cuộc đời Kiều. Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta nhận ra những chuỗi ngày bi kịch của tương lai cũng không đau xót bằng cõi lòng nàng đã nát tan ở hiện tại.

“Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương huyền ngày xưa”

Từ “của chung” giờ đã chuyển thành “của tin”. Kỷ vật trao thì đã thành của chung, nhưng kỷ niệm và tình cảm ấy không thể trao trọn nên vẫn là của tin của chỉ Kiều và Kim. Một lần nữa gợi nhắc lại kỷ niệm “phím đàn”, “mảnh hương huyền”, nhưng bao kỷ niệm giờ chỉ còn tồn tại trong ký ức, trong quá khứ xa xăm. Nàng hướng tầm nhìn đến tương lai nhưng tương lai lại càng tuyệt vọng bế tắc.

“Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin chén nước cho người thác oan”

Từ kỷ niệm ngọt ngào của quá khứ, Kiều đã đưa suy nghĩ đến tương lai. Nhưng thế giới tương lai mà Kiều hình dung là một cuộc sống cõi âm mù mịt, tăm tối. Thúy Kiều trăn trở và tiếc nuối mối tình đầu trong trắng với những hẹn thề chưa thể thưc hiện được và nghĩ mình là người chết oan, cho nên ngôn ngữ nói như nửa tỉnh, nửa mê: hiu hiu, hương khói, ngọn cỏ, lá cây…mà thực sự là tâm trạng đớn đau dằn vặt khôn nguôi.

Vẫn đang nói với Vân, đang dặn dò và tâm tình cùng em, nhưng hình như càng nói, Kiều càng dầng quên sự có mặt của em. Nàng chỉ nói một mình, với mình, thầm thì thành tiếng về tương lai mù mịt, thê thảm của chính mình. Đang sống mà nàng lại nói đến cái chết cho thấy nỗi đau của Kiều dồn lên đến đỉnh điểm. Những câu thơ trên khi phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, ta thấy nó đã có tác dụng giúp thể hiện tình cảm bền chặt, thủy chung và mãnh liệt của Kiều đối với Kim Trọng.

Diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên từ lời tâm sự với Thúy Vân, Kiều chuyển dần sang lời độc thoại với chính bản thân mình. Bất lực, uất ức, nghẹn ngào bắt đầu trào dâng bật thành lời thơ. Tiếng thơ cũng chính là tiếng lòng nàng.

“Bây giờ trâm gãy bình tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Phận sao phận bạc như vôi?

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.”

Hiện tại và quá khứ bỗng trở thành hai khoảng thời gian lạ lẫm. Quá khứ hạnh phúc ngọt ngào bao nhiêu thì hiện giờ đây ngay lúc này nàng chỉ thấy đau đớn đắng cay. Quá khứ được nhắc đến nhưng chỉ qua gợi nhắc “muôn vàn ái ân”. Quá khứ hạnh phúc không thể đong đếm nhưng ngắn ngủi giữa chừng đứt gánh đầy bàng hoàng. Ngỡ như mọi chuyện chỉ mới vừa xảy ra. Đối lập với quá khứ là hiện tại. đó là hiện tại của “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “hoa trôi lỡ làng” gợi sự chia ly muôn vàn xót xa. Ái ân hạnh phúc ngày xưa nay còn đâu.

“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Kiều ý thức được thực tại bẽ bàng, buồn thay cho thân phận mình. Nhưng nàng lại nhận tất cả mọi chuyện về mình, mọi lỗi lầm về mình. Cách sử dụng thán từ kết hợp với điệp từ “Kim lang” cho thấy một tiếng gọi đau đớn, níu kéo trong tuyệt vọng. Trong thời khắc đau đớn của tâm hồn, Kiều vẫn hướng tất cả về phía Kim Trọng. Kiều rơi vào bi kịch đau xót của tình yêu nhưng vẫn mang vẻ đẹp cao thượng của sự hi sinh. Cuộc trao duyên từ biệt trở thành cuộc tử biệt sinh ly.

Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên, người đọc nhận thấy ở những dòng thơ này chính là một khối mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều. Kiều trao kỉ vật cho em mà lời gửi trao chất chứa bao đau đớn, giằng xé và chua chát. Trái tim bắt đầu thổn thức và lên tiếng.

Nguyễn Du đã vận dụng thành công phép biện chứng của tâm hồn diễn tả tinh tế từng bước chuyển biến tâm trạng của Kiều. Cách sử dụng từ ngữ kết hợp với hình ảnh giàu giá trị biểu cảm đã diễn tả rõ nét tâm trạng bi kịch giằng xé của Kiều. Còn gì đau đớn hơn khi chính tay mình dập tắt mối tình đầu tươi đẹp. Qua đó, người đọc đồng cảm và thấu hiểu hơn với Kiều.

Kết bài:

Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” là một khúc “đoạn trường” bậc nhất trong thiên “Đoạn trường tân thanh” của cuộc đời Kiều. Với con mắt tinh đời “trông thấu sáu cõi nhân gian”, Nguyễn Du đã tái hiện lại cuộc trao duyên với biết bao cảm xúc ngổn ngang ấy. Qua đó, ta càng thêm hiểu hơn cho Thúy Kiều hiểu hơn cho quyết định trao duyên những tưởng đầy vô lý ấy nhưng lại thấm đượm một tình yêu chân thành mà nàng dành cho Kim Trọng.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Văn học – Tài liệu của Mobitool.

Tham khảo thêm

See more articles in the category: TIN TỨC

Leave a Reply